^
^
Lạc giáo của Phanxicô | Lạc giáo trong Vaticanô II | Lạc giáo của Biển Đức XVI | Lạc giáo của Gioan Phaolô II | Từ điển thuật ngữ nguyên tắc | Sự thật về Sơ Lucia giả mạo | Kế hoạch hoá gia đình tự nhiên (NFP) là tội lỗi | Lòng thương xót Chúa của sơ Faustina là giả | Cửa hàng online và thông tin liên lạc |
Các bước trở lại đạo | Nơi lãnh nhận các bí tích | Kinh Mân Côi | Không có Ơn cứu độ bên ngoài Giáo hội | Thuyết Trống toà là gì | Thánh lễ Mới không thành sự | Nghi thức truyền chức linh mục mới | E-Exchanges |
Câu chuyện về sự hoán cải kỳ diệu của Alphonse Ratisbonne
Nhờ ơn cầu bầu của Mẹ Maria
Câu chuyện này đã được một độc giả gửi đến cho chúng tôi:
Vào tháng 11 năm 1830, Đức Mẹ Maria hiện ra với một tập sinh trẻ trong tu viện của các nữ tu bác ái tại Rue du Bac, Paris. Tên của cô là Catherine Laboure.
Đây không phải là lần đầu tiên cô nhìn thấy Đức Mẹ, nhưng đó là lần quan trọng nhất. Đức Mẹ hiện ra cầm một quả cầu, bà nhấc lên trong khi cầu nguyện nhìn lên trời (biểu thị rằng bà đang cầu nguyện cho toàn thế giới). Sau đó, quả cầu biến mất, và thị kiến thay đổi. Đức Mẹ dang rộng cả hai tay, từ đó những tia sáng chiếu ra. Xung quanh bà tạo thành một mái vòm với dòng chữ:
Đức Mẹ yêu cầu một Mề đay được khắc thể hiện thị kiến này. Ở mặt sau của Mề đay, bà yêu cầu mô tả hai trái tim (của bà và của Chúa Kitô), với một cây thánh giá trên chữ M. Bà hứa rằng Thiên Chúa sẽ ban những ân sủng lớn lao thông qua Mề đay này cho những Kitô hữu mang nó cách sùng đạo.
Mề đay huyền nhiệm
Với rất nhiều khó khăn, Sơ Laboure đã thuyết phục cha giải tội của cô sắp xếp việc tạo Mề đay. Cuối cùng, nó đã được phê duyệt, in khắc, và phát hành.
Ban đầu được gọi là Mề đay Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội, nó nhanh chóng được gọi là Mề đay huyền nhiệm, bởi vì rất nhiều phép lạ chữa lành và trở lại đạo đã đến với những người đeo nó. Tuy nhiên, mặc dù bản thân Đức Giáo hoàng sở hữu Mề đay huyền nhiệm, nhưng ban đầu Mề đay phổ biến nhất ở Pháp; nó vẫn không được lan truyền sâu rộng ở Rôma và trên toàn thế giới cho đến sau câu chuyện cải đạo kỳ diệu của Alphonse Ratisbonne.
Tua nhanh đến ngày 6 tháng 1 năm 1842. Alphonse, một chủ ngân hàng trẻ người Do Thái, vừa đến Rôma. Là con cháu của gia đình Do Thái quan trọng nhất thành phố Strasbourg, anh là một người thuộc về thế gian: giàu có, trang nhã, tinh tế, theo thuyết bất khả tri (trước đó là vô thần) ... một người bạn của gia đình Rothschild, giao lưu thân mật với giới quý tộc. Ở tuổi 28, anh ta đính hôn với cháu gái của mình, Flore Ratisbonne, người mà anh ta dự định kết hôn vào tháng 8 năm sau. Ngay bây giờ, anh ấy đang đi du lịch châu Âu và vùng cận Đông (Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay), một phần để giải trí và một phần vì sức khỏe của anh ấy– một lần cuối cùng trước khi ổn định cuộc sống với Flore và đảm nhận một mối quan hệ đối tác tại ngân hàng của chú mình.
Alphonse không có ý định đến thăm Rôma. Anh ta chống Công giáo quyết liệt: Như chính anh ta đã nói, chỉ cần nghe đến chữ Dòng Tên (Jesuit) là đủ để khiến anh ta trở nên giận dữ. Anh ta luôn nuôi dưỡng sự ác cảm này đối với đạo Công giáo, nhưng điều đó đã gia tăng mãnh liệt kể từ khi anh trai của ông, Theodor, trở thành một người cải đạo và sau đó (không thể tin nỗi!) là một linh mục.
Vì vậy, nơi cuối cùng trên thế giới mà Alphonse muốn đến là Rôma. Nhưng bằng cách nào đó anh ấy đã kết thúc ở đây. Tại Napôli, bằng cách nào đó, anh ta đã đi nhầm tàu... và trong cơn bực bội, ngay cả sau khi anh ta nhận ra chuyện gì đang xảy ra, anh ta vẫn tiếp tục ở đó và đặt chỗ đi trên tàu hơi nước đến Rôma. Thế là anh ta đến đây, tận dụng tốt nhất điều đó, hăng hái tham quan các tàn tích và bảo tàng La Mã cùng với một hướng dẫn viên.
Đột nhiên anh nghe thấy ai đó gọi tên mình được gọi và quay vòng quanh. Đó là người bạn học cũ của anh ấy ở Strasbourg, Gustave de Bussieres, một người Tin lành. (Alphonse không bận tâm đến những người theo đạo Tin lành; anh ta chỉ kì thị người Công giáo.)
Hai người háo hức gặp nhau. Sau đó, khi Alphonse đến thăm Gustave, anh gặp anh trai của Gustave, Nam tước Theodor de Bussieres, một người cải đạo sang Công giáo và là bạn thân của người anh trai là linh mục của Alphonse. Alphonse cảm thấy ghê tởm theo bản năng đối với người cải đạo Công giáo nhiệt thành này, nhưng anh ta biết vị Nam tước là một chuyên gia về Constantinople (nơi Alphonse dự định sẽ đến thăm). Thế nên anh ta vội vàng đồng ý gặp ông ta để xin lời khuyên cho chuyến du lịch.
Lời hứa vội vàng này hóa ra là một quyết định không thể sai lầm hơn cho Alphonse.
Trong vòng một hoặc hai ngày tiếp theo, Alphonse đến thăm Nhà thờ Aracoeli, nơi những bài thánh ca đã khuấy động anh sâu sắc; Anh ấy xúc động đến mức rơi nước mắt, mặc dù anh không thể xác định chính xác điều gì đã chạm đến trái tim mình. Tuy nhiên, ngay sau đó, anh đến thăm khu ổ chuột Do Thái khét tiếng ở Rôma, nơi sự khốn khổ rõ ràng của người dân anh khơi dậy lần nữa cơn thịnh nộ của anh đối với mọi thứ Công giáo.
Từ đó, anh ta đến gặp Nam tước de Bussieres. Tuy nhiên, anh ta không có ý định thực sự đến thăm. Thay vào đó, anh ta dự định sẽ chỉ để lại danh thiệp và rời đi. Nhưng người gác cửa đã nhầm lẫn ý định của Alphonse và đưa anh ta vào phòng khách, nơi vị Nam tước, vợ và các cô con gái nhỏ của ông ta đang ở trong gia đình.
Lúc đầu, vị Nam tước và Alphonse chỉ trao đổi những lời vui vẻ vô nghĩa. Sau đó, Alphonse tình cờ đề cập đến chuyến thăm của anh ấy đến Aracoeli; anh kể lại cảm xúc kỳ lạ mà anh có, sự thức tỉnh tôn giáo mơ hồ....
Đột nhiên anh ta nhận thấy vẻ mặt háo hức của vị Nam tước, dường như muốn nói: “Một ngày nào đó anh sẽ là một người Công giáo!” Chán gét lòng nhiệt thành của vị Nam tước, Alphonse mô tả chuyến thăm của mình đến khu ổ chuột Do Thái. Anh ta phát động một cuộc tấn công kịch liệt vào Giáo hội Công giáo, mà anh ta cho rằng phải chịu trách nhiệm về tất cả những đau khổ mà người Do Thái phải gánh chịu kể từ thời Chúa Kitô.
Không nao núng, vị Nam tước đáp lại bằng cách ca ngợi vinh quang Công giáo. Alphonse trả lời một cách mỉa mai, công khai chế giễu tính những “mê tín dị đoan” của Công giáo. Chỉ có sự hiện diện của bà de Bussieres và những đứa trẻ mới ngăn cản anh ta nói toạc ra những lời phạm thánh.
Cuối cùng, vị Nam tước đưa ra một đề xuất cực kỳ lạ thường.
“Vì anh ghê tởm những điều mê tín dị đoan và tán thành những quan điểm cấp tiến như vậy,” ông hỏi Alphonse, “anh có cân nhắc việc tuân theo một thử nghiệm đơn giản sau đây không?”
“Thử nghiệm gì?”
“Hãy mang một vật mà tôi sẽ đưa cho anh. Đây là một Mề đay của Đức Trinh Nữ. Nó có vẻ khá lố bịch đối với anh, không nghi ngờ gì. Nhưng đối với tôi, tôi rất trân trọng nó.” Và ông ta cho Alphonse xem Mề đay huyền nhiệm được gắn vào một sợi dây.
Alphonse chết lặng. Anh ta khó có thể tin được sự lố bịch của vị Nam tước. Nhưng là một người thuộc về thế gian, anh ta không muốn trông có vẻ như làm lớn một điều vặt vãnh. Vì vậy, anh ta đồng ý, nhẹ nhàng trích dẫn một dòng từ The Tales of Hoffman: “Nếu điều đó chẳng có lợi gì, ít nhất nó cũng chẳng có hại gì cho tôi.”
Con gái nhỏ của vị Nam tước choàng Mề đay quanh cổ Alphonse. Và Alphonse bật cười: “Ah! Ah! Giờ đây tôi là một người Công giáo, tông truyền và La Mã!”
Nhưng vị Nam tước tiếp tục thúc giục. Chỉ mang Mề đay là không đủ, ông nói. Alphonse cũng phải đồng ý cầu nguyện một lời cầu nguyện đơn giản, Kinh Hãy nhớ của Thánh Bernard.
“Điều này là quá nhiều.” Alphonse thốt lên – “Hãy chấm dứt sự ngu ngốc này!” Việc đề cập đến Thánh Bernard khiến anh ta nhớ đến người anh trai của mình, Viện phụ Theodor Ratisbonne, tác giả của một cuốn tiểu sử về thánh Bernard dòng Xitô. Bất cứ điều gì khiến Alphonse nhớ đến người anh trai phản bội đều khơi dậy cơn thịnh nộ của anh ta.
Tuy nhiên, vị Nam tước vẫn kiên trì. Nếu Alphonse từ chối đọc lời cầu nguyện ngắn ngủi này, ông nhấn mạnh, anh ta sẽ khiến toàn bộ “cuộc thí nghiệm” trở nên vô hiệu. Vì vậy, Alphonse đồng ý. Theo lệnh của Nam tước, anh ta thậm chí còn đồng ý sao chép một bản Kinh Hãy nhớ. Sau đó, anh ta bỏ túi nó và rời đi, cảm thấy mọi việc thật nực cười.
Nhưng cuối đêm đó, khi anh ta nhớ lại lời cầu nguyện một cách máy móc, điều gì đó đã xảy ra. Anh ta không thể loại bỏ những lời trong Kinh Hãy nhớ ra khỏi tâm trí mình. Chúng in sâu vào tâm trí, như một giai điệu khó chịu mà người ta không thể quên được. Hết lần này đến lần khác, với sự bực bội ngày càng tăng, anh ta đọc thầm lời cầu nguyện phiền nhiễu này của Thánh Bernard.
Nhiều lần, trong những ngày tiếp theo, vị Nam tước đưa Alphonse đi tham quan Rôma. Luôn luôn, bất kể họ đang đến thăm tượng đài nào, vị Nam tước vẫn đưa các cuộc trò chuyện hướng đến chủ đề tôn giáo. Điều này khiến Alphonse rất khó chịu, nhưng ông ta không thể bị lay chuyển. Thông thường, anh ta nhẹ nhàng làm chệch hướng nỗ lực cải đạo của vị Nam tước bằng những lời chê bai gần như phạm thánh.
Tại một thời điểm, vị Nam tước đảm bảo với Alphonse, “Tôi tin chắc rằng một ngày nào đó anh sẽ trở thành một Kitô hữu... nếu cần thiết, Thiên Chúa sẽ sai sử một vị thiên thần từ Thiên Đàng để thực hiện điều đó.”
“À, vậy thì càng sớm càng tốt,” Alphonse trả lời cách giễu cợt, “vì nếu không thì chuyện này sẽ rất khó mà xảy ra.”
Cũng trong dịp đó, khi xe ngựa đi ngang qua Scala Sancta [Cầu thang thánh. Cầu thang ở dinh quan Philatô mà Chúa Giêsu bước lên trong cuộc khổ nạn], vị Nam tước đột nhiên cởi mũ ra và thốt lên, “Xin kính chào Cầu thang thánh! Đây là một người hối cải tương lai, một ngày nào đó sẽ quỳ gối trên ngươi!”
Điều này khiến Alphonse choáng váng. Anh ta không thể tin rằng người bạn đồng hành với anh ta đang chào “những bậc thang ngu ngốc”. Vài phút sau, khi họ đi qua những khu vườn xinh đẹp của một biệt thự địa phương, Alphonse cởi mũ của mình và nhại lại vị Nam tước: “Xinh kính chào, vinh quang thực sự của tự nhiên! Chúng ta nên tỏ lòng tôn kính đối với ngươi chứ không phải với những bậc thang ngu ngốc!”
Trên thực tế, nỗ lực cải đạo không ngừng nghỉ của vị Nam tước đang bắt đầu khiến Alphonse cảm thấy khó chịu. Thay vì hướng anh ta về phía Công giáo, nó đang khiến anh ta trở nên phản cảm hơn. Tuy nhiên, vị Nam tước không nản lòng mà vẫn kiên trì.
Nhưng vị Nam tước không chỉ dựa vào lý luận. Ông ấy cũng cầu nguyện rất chăm chỉ. Và bạn bè của ông ấy cũng vậy, những người trong cộng đồng quý tộc Pháp ở Rôma. Đáng chú ý trong số những người bạn này là Bá tước de la Ferronays, người đã từng là một nhà ngoại giao, đã từng sống một cuộc sống rất phóng đãng, nhưng bây giờ là một người Công giáo sùng đạo và nhiệt thành.
Cảm động trước lời cầu xin của Nam tước, vị Bá tước ghé vào một nhà thờ và tha thiết cầu nguyện “hơn 20 Kinh Hãy nhớ” cho sự cải đạo của “người Do Thái trẻ này”.
Ngay buổi tối hôm đó, vị Bá tước bị một cơn đau tim chí mạng. Sau khi nhận được các Bí tích cuối cùng, ông đã chết một cách sùng đạo, được bao quanh bởi gia đình thân ái của ông.
Ta hãy quay trở lại câu chuyện về Ratisbonne.
Vào đêm ngày 19-20 tháng 1. Alphonse dự định rời Rôma vào ngày hôm sau. Vào nửa đêm, anh ta đột ngột tỉnh dậy. Dưới giường của mình, anh nhìn thấy một cây thập giá lớn (không phải thánh giá), khá rõ ràng, “không có Chúa Kitô trên đó”. Anh ta cố gắng rũ bỏ cảnh tượng không mong muốn này, nhưng anh ấy không thể. Vô luận anh ta nhìn đến đâu, nó vẫn ở đó. Ngay cả khi anh ấy nhắm mắt lại, anh ấy vẫn nhìn thấy nó. Cuối cùng, kiệt sức, anh ta ngủ thiếp đi. Khi anh ta thức dậy vào buổi sáng, anh ta đã quên đi cảnh tượng vào đêm trước.
Alphonse thu xếp hành lý, ăn sáng và đi ra ngoài để chào tạm biệt. Anh tình cờ gặp lại người bạn Gustave của anh, cả hai cùng thảo luận về một nghi lễ tôn giáo sắp tới, việc Đức Giáo hoàng sắp ban phước cho động vật tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô. Cả hai đều cảm thấy rất nực cười về ý nghĩ về một buổi lễ như vậy, vì vậy họ nhân cơ hội này để nhạo báng và giễu cợt đạo Công giáo. “Tiếp đó là một loạt những trò đùa và những lời dí dỏm,” Alphonse sau đó tường thuật, “như bạn có thể tưởng tượng giữa một người Do Thái và một người Tin lành.”
Sau khi rời Gustave, Alphonse dừng lại ở Cafe Greco để đọc báo. Anh tình cờ gặp thêm một vài người bạn nước ngoài, và họ trò chuyện về những điều phù phiếm như buổi dạ vũ vào tối hôm trước. Sau đó, Alphonse đi ra ngoài, trong ánh nắng rực rỡ của thành Rôma. Lúc đó là chỉ sau buổi trưa.
Trong giây lát, anh ta gặp xe ngựa của Nam tước de Bussieres. Vị Nam tước mời anh ta tiến vào, thực hiện chuyến tham quan cuối cùng. Nhưng trước tiên, de Bussieres giải thích, ông ấy phải dừng lại ở Nhà thờ San Andrea delle Fratte để làm một số việc vặt. Một người bạn thân của ông, Bá tước de la Ferronays, vừa qua đời, ông nói, và ông phải hoàn tất việc sắp xếp tang lễ.
Họ dừng lại ở nhà thờ. De Bussieres nói rằng ông ấy sẽ chỉ mất vài phút, vì vậy Alphonse nên đợi trong xe ngựa với bà de Bussieres, nhưng Alphonse quyết định vào bên trong để tham quan nhà thờ.
Không có nhiều thứ để xem. Nhà thờ này “rất nghèo, trần trụi và xấu xí”, không có nghệ thuật hoặc kiến trúc đặc biệt nào. Alphonse nhìn xung quanh một cách máy móc khi ông de Bussieres vội vã trao đổi với các tu sĩ.
Alphonse chỉ ở một mình. Đột nhiên một con chó mực rất lớn nhảy lên trước mặt anh ta. Nhưng ngay sau đó, con chó biến mất. Thật sự mà nói, mọi thứ biến mất, như thể một bức màn đã được phủ lên bên trong nhà thờ. Một ánh sáng rực rỡ rực rỡ từ một nhà nguyện bên, Nhà nguyện của các Tổng lãnh thiên thần. Như thể tất cả ánh sáng đã tập trung vào một điểm đó.
Và ở trung tâm của ánh sáng, Alphonse nhìn thấy Bà. Bà đang đứng trên bàn thờ: “cao lớn, rực rỡ, đầy ngọt ngào và uy nghiêm.” Bà ấy đẹp đến chói mắt, đến nỗi, sau một cái liếc nhìn vào khuôn mặt bà, anh ta phải cụp mắt xuống. Lặp đi lặp lại, anh cố gắng ngước mắt lên, để nhìn thấy khuôn mặt xinh đẹp ấy. Nhưng anh ta không thể. Anh không thể ngước mắt lên ngang tầm bàn tay của Bà, mà đang dang rộng, với ánh sáng tỏa ra từ các ngón tay của Bà – hệt như trên Mề đay Kỳ diệu.
Nhưng đôi tay của Bà rất biểu cảm. Đối với Alphonse, chúng nói lên “tất cả sự dịu dàng của lòng thương xót thiêng liêng.”
Với một tay, Bà ra hiệu cho anh đến gần. Anh ấy làm như vậy, trên đầu gối của mình. Sau khi anh tiến được vài bước, Bà lại ra hiệu, như thể muốn biểu thị: “Đủ rồi - tốt rồi!”
Sau đó, khi anh nhìn chằm chằm vào ánh sáng tỏa ra từ các ngón tay Bà, anh ta nhận được món quà là Tri thức Quán chú. Nhanh hơn cả suy nghĩ, anh ta hiểu tất cả: tội lỗi sâu sắc của bản thân mình (đặc biệt là gánh nặng từ Tội nguyên thủy); Tình yêu và lòng thương xót vô hạn của Thiên Chúa đối với những tội nhân đáng thương, được bày tỏ trong mầu nhiệm Nhập thể và chịu Đóng đinh thập giá; vẻ đẹp và sự thật của Đức tin Công giáo; sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô trong Thánh Thể.
Là một người Do Thái theo thuyết bất khả tri, lớn lên trong một môi trường đầy hoài nghi, anh ta thậm chí chưa bao giờ nghe đến thuật ngữ “Nguyên tội”; Thế nhưng giờ đây anh ấy ngay lập tức biết rõ điều đó là gì, sâu sắc hơn nhiều so với việc anh ấy đã nghiên cứu chủ đề này trong nhiều năm.
Toàn bộ trải nghiệm chỉ mất vài phút.
Nam tước de Bussieres trở về từ cuộc trò chuyện với các tu sĩ. Ông ấy nhìn xung quanh lòng nhà thờ. Ratisbonne đang ở đâu? Cuối cùng, ông tìm được chàng trai trẻ: gục xuống, quỳ gối, đầu dựa vào bàn chịu lễ trong Nhà nguyện của các Tổng lãnh Thiên thần.
Vị Nam tước đến gần. Một lần, hai lần, lần thứ ba, ông ta vỗ vào vai Alphonse. Không có phản hồi. Cuối cùng Alphonse được đánh thức. Anh ta quay về phía vị Nam tước “trong một khuôn mặt đẫm nước mắt”, cụm tay lại và thốt lên, “Ôi! Quý ông đó đã cầu nguyện cho tôi biết bao!”
“Quý ông đó” là Bá tước de la Ferronays, người mà Alphonse chưa bao giờ gặp. Không ai nói với Alphonse rằng vị Bá tước đã cầu nguyện cho ông. Điều đó chỉ vừa được tiết lộ cho anh ấy... trong cùng một ánh sáng siêu nhiên mà anh ta đã nhận được tri thức quán chú về Chân lý Công giáo.
De Bussieres choáng váng. Ông xin Alphonse hãy giải thích mọi việc, nhưng Alphonse không thể. Anh ấy khóc nức nở quá nhiều, thì thầm giữa những tiếng nức nở, “Tôi hạnh phúc biết bao! Thiên Chúa thật tốt đẹp biết bao! Những người không tin thật đáng thương biết bao!”
Vị Nam tước giúp Alphonse ra ngoài và vào xe ngựa của ông. Ông đưa anh ta đến khách sạn Serny, nơi Alphonse đang ở, và nới lỏng cà vạt để anh ta có thể thở. Nhưng Alphonse vẫn đang khóc nức nở, nắm chặt Mề đay huyền nhiệm của mình, thì thầm cảm ơn Chúa. Cuối cùng, anh ta quay sang vị Nam tước, ôm lấy ông ta, và với khuôn mặt “gần như biến đổi hoàn toàn” và nói: “Đưa tôi đến với cha giải tội ngay lập tức! Khi nào tôi mới có thể nhận phép rửa tội, mà thiếu đi thì tôi không thể sống được nữa?”
“Chuyện gì đã xảy ra?” Vị Nam tước thốt lên. “Anh đã thấy những gì?”
“Điều đó,” Alphonse nói, “tôi chỉ có thể tiết lộ khi quỳ gối trước một linh mục.”
Thế rồi... vị Nam tước đưa anh ta đến Gesu, nhà thờ chính của Dòng Tên, để gặp Cha de Villefort. Ở đó, Alphonse cố gắng giải thích bản thân, nhưng anh ta vẫn tiếp tục khóc nức nở đến mức không thể hiểu được. Cuối cùng, anh ta bình tĩnh lại, lấy Mề đay huyền nhiệm ra khỏi cổ, giơ nó lên, và kêu lên: “Tôi đã thấy Bà! Tôi đã thấy Bà!”
Sau đó, khi Nam tước và vị linh mục lắng nghe trong sự kinh ngạc, Alphonse kể lại toàn bộ câu chuyện. Anh kết thúc bằng một tuyên bố mạnh mẽ cho mọi người xung quanh: “Bà ấy không nói chỉ một lời, nhưng tôi hiểu tất cả.”
Mười một ngày sau, Alphonse được rửa tội tại nhà thờ Gesu. Tất cả những ai có địa vị hoặc danh tiếng đều có mặt, vì tin tức về việc cải đạo của Alphonse đã gây chấn động cho tất cả mọi người. (Gia đình anh ta nổi tiếng khắp châu Âu.) Những người tham dự đều muốn nhìn thoáng qua người cải đạo trẻ tuổi này, nhưng anh ta không để ý đến điều đó. Tất cả những gì anh ta quan tâm là phép rửa tội... và sau đó, Thánh Thể. Anh ta trở nên quá xúc động bởi việc rước Mình Thánh đến mức anh ta phải được nâng đỡ bởi de Bussieres, người đỡ đầu của anh ta, trong khi trở về từ bàn thánh.
Vào tháng sau, Vatican thực hiện một tiến trình giáo luật để điều tra các hoàn cảnh xung quanh việc cải đạo của Alphonse. Sau một quá trình điều tra lâu dài và lắng nghe nhiều lời khai, Tòa Thánh kết luận rằng sự hoán cải chóng vánh của anh ta là hoàn toàn kỳ diệu – một hành động của Thiên Chúa được thực hiện qua ơn cầu bầu đầy quyền năng của Đức Bà.
Câu chuyện cải đạo của Ratisbonne được nhiều người coi là một xác nhận từ Thiền đàng về hiệu quả của Mề đay huyền nhiệm. Thực hành trên được lan truyền rộng rãi…
Tháng Bảy năm sau, Alphonse gia nhập Dòng Tên. Anh đã trải qua 10 năm với nhiều thành quả trong vòng tay của Hội dòng. Sau đó, với sự cho phép của Đức Giáo hoàng, ông rời đi để giúp người anh trai Theodor thành lập Dòng Đức Mẹ Siôn, dành riêng cho việc cải đạo người Do Thái. Alphonse dành phần đời còn lại của mình với tư cách là một linh mục thánh thiện, hoạt động giữa những người Do Thái và người Ả Rập ở Đất Thánh. Anh thành lập các trại trẻ mồ côi và trường học cho trẻ em nghèo, xây dựng Nhà thờ Ecce Homo, và sống một cuộc sống cực kỳ thánh thiện. Anh qua đời tại Ain Karem, nơi được cho là địa điểm xảy ra sự kiện Đức Mẹ Thăm Viếng. Trên giường bệnh, anh ta rơi vào trạng thái ngây ngất - dường như đã nhìn thấy, lần cuối cùng trước khi chết, Mề đay Đức Bà mầu nhiệm.
(Các nguồn chính là tường thuật của chính Alphonse về sự cải đạo của ông, tường thuật của Nam tước de Bussiere, và một cuốn sách của Cha Rene Laurentin, Le 20 janvier 1842, Marie apparait a Alphonse Ratisbonne.)
Kinh Hãy nhớ:
Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh Maria là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời.
Nhân vì sự ấy, con hết lòng trông cậy than van, chạy đến sấp mình xuống dưới chân Đức Mẹ, là Nữ Đồng Trinh trên hết các kẻ đồng trinh, xin Đức Mẹ đoái đến con là kẻ tội lỗi.
Lạy Mẹ là Mẹ Chúa Cứu thế, xin chớ bỏ lời con kêu xin, một dủ lòng thương và nhậm lời con cùng. Amen.
Bài Viết Liên Quan