^
^
Lạc Giáo Của Phanxicô | Lạc Giáo Trong Vaticanô II | Lạc Giáo Của Biển Đức XVI | Lạc Giáo Của Gioan Phaolô II | Từ Điển Thuật Ngữ Nguyên Tắc | Sự Thật Về Kẻ Mạo Danh Sơ Lucia | Kế Hoạch Hoá Gia Đình Tự Nhiên (NFP) Là Tội Lỗi | Lòng Thương Xót Chúa Của Sơ Faustina Là Giả | Cửa Hàng Online Và Thông Tin Liên Lạc |
Các Bước Hoán Cải | Nơi Lãnh Nhận Các Bí Tích | Thánh Mân Côi | Không Có Ơn Cứu Độ Bên Ngoài Giáo Hội | Trả Lời Kháng Bác Về Thuyết Trống Toà | Tân Thánh Lễ Vô Hiệu | Nghi Thức Truyền Chức Linh Mục Mới | E-Exchanges |
Kế hoạch hóa Gia đình Tự nhiên (NFP) là Kiểm soát Sinh sản Tội lỗi
Tóm lượt:
Kế hoạch hóa Gia đình Tự nhiên là gì?
Kế hoạch hóa Gia đình Tự nhiên (viết tắt NFP cho: Natural Family Planning) là thực hành cố tình hạn chế hành vi hôn nhân chỉ trong những lúc người vợ không có khả năng sinh sản để tránh thụ thai em bé. NFP được sử dụng vì những lý do tương tự như khi một người sử dụng biện pháp tránh thai nhân tạo: để cố tình tránh thụ thai em bé trong khi thực hiện hành vi hôn nhân.
Nguỵ giáo hoàng Phaolô VI đã giải thích chính xác rằng NFP là kiểm soát sinh sản khi ông quảng bá nó trong Humanae Vitae.
Tại sao NFP sai trái?
NFP là sai vì đó là kiểm soát sinh sản; nó chống lại việc thụ thai. Đó là một sự từ chối từ phía những người sử dụng nó để cởi mở với những em bé mà Thiên Chúa đã dự định gửi chúng đến. Nó không khác gì trong mục đích với biện pháp tránh thai nhân tạo, và do đó nó là một tệ nạn đạo đức giống như biện pháp tránh thai nhân tạo.
Giáo huấn của Huấn quyền Giáo Hoàng Công Giáo
Giáo Hoàng Piô XI đã giảng từ Tông Toà Thánh Phêrô trong thông điệp Casti Connubii năm 1931 về hôn nhân Kitô giáo. Lời dạy của ông cho thấy rằng tất cả các hình thức phòng ngừa sinh sản là xấu xa. Chúng tôi sẽ trích dẫn một đoạn trích dài từ thông điệp của ông ấy tóm tắt vấn đề.
Giáo Hoàng Piô XI, Casti Connubii (# 53-56), ngày 31 tháng 12, 1930:
“Và giờ đây, các Chư huynh Đáng kính, ta sẽ giải thích chi tiết các tệ nạn trái ngược với từng lợi ích của hôn nhân. Cân nhắc đầu tiên là do con cái, mà nhiều người có sự táo tợn gọi là gánh nặng hôn nhân không vừa ý và điều mà họ nói là phải cẩn thận tránh xa bởi những người đã kết hôn không thông qua nhân đức tiết dục (mà luật Kitô giáo cho phép trong hôn nhân khi cả hai bên đồng ý) nhưng bằng cách làm rối loạn hành vi hôn nhân. Một số biện minh sự lạm dụng vô đạo đức này với lý do rằng họ mệt mỏi với trẻ em và muốn thỏa mãn mong muốn của họ mà không có gánh nặng hậu quả của chúng. Những người khác nói rằng họ không thể một mặt vẫn tiết dục cũng như mặt khác họ có thể có con vì những khó khăn cho dù là từ phía người mẹ hay về hoàn cảnh gia đình.
“Nhưng không một lý do gì, dù nghiêm trọng đến đâu, có thể được đưa ra mà bất cứ điều gì về bản chất chống lại tự nhiên có thể trở nên phù hợp với tự nhiên và tốt lành về mặt đạo đức. Vì vậy, hành vi vợ chồng được định sẵn chủ yếu bởi bản chất cho việc sinh sản trẻ em, những người trong việc thực hiện nó cố tình làm rối loạn năng lực tự nhiên và chủ tâm phạm tội chống lại tự nhiên và thực hiện một hành động đáng xấu hổ và thực chất xấu xa.
“Chẳng bất ngờ, do đó, nếu Thánh Kinh làm chứng rằng Thiên Chúa xem với sự cay ghét mãnh liệt nhất tội ác khủng khiếp này và đôi khi đã trừng phạt nó bằng cái chết. Như Thánh Augustinô lưu ý, ‘Giao hợp ngay cả với người vợ hợp pháp của một người là bất hợp pháp và tà ác khi việc thụ thai con trẻ bị ngăn cản.’ Onan, con trai của Giuđa, đã làm việc này và Chúa đã giết hắn vì điều đó (St 38:8-10).
“Do đó, công khai rời khỏi truyền thống không gián đoạn Kitô giáo, một số người gần đây đã phán xét có thể long trọng tuyên bố một giáo lý khác liên quan đến câu hỏi này, Giáo Hội Công Giáo, nơi mà Thiên Chúa đã giao phó bảo vệ sự toàn vẹn và tinh khiết của đạo đức, đứng vững giữa sự hủy hoại đạo đức bao quanh, để bà có thể giữ gìn sự trong trắng của liên kết hôn nhân khỏi bị ô uế bởi vết bẩn hôi này, lên tiếng trong biểu hiện thánh sứ đồ của bà và thông qua miệng của Ta tuyên bố một lần nữa: bất cứ việc sử dụng bất kỳ cuộc hôn nhân nào được thực hiện theo cách mà hành vi này cố tình làm rối loạn năng lực tự nhiên trong việc tạo ra sự sống là một hành vi phạm tội chống lại luật Thiên Chúa và luật tự nhiên, và những người thoả mãn trong thực hành như vậy bị quy vào án trọng tội.”[2]
Ta có thể thấy rằng Giáo Hoàng Piô XI lên án tất cả các hình thức ngừa thai là trọng tội vì chúng làm rối loạn hành vi hôn nhân. Điều này có lên án NFP không? Có, nhưng những người bảo vệ Kế hoạch hóa Gia đình Tự nhiên nói “không.” Họ lập luận rằng khi sử dụng Kế hoạch hóa Gia đình Tự nhiên để tránh thụ thai, họ không cố tình làm rối loạn hành vi hôn nhân hay chủ tâm tước đi năng lực tự nhiên trong việc thụ tạo mầm sống, như được thực hiện với các biện pháp tránh thai nhân tạo. Họ lập luận rằng NFP là “tự nhiên.”
Lẽ thường nên nói với những người xem xét sâu sắc chủ đề này rằng các lập luận này là suy diễn bởi vì toàn bộ mục đích của NFP là tránh thụ thai. Tuy nhiên, nỗ lực biện minh cho NFP – tuyên bố rằng nó không can thiệp vào chính hành vi hôn nhân và do đó được cho phép – phải được bác bỏ cụ thể. Tuyên bố này đặc biệt bị bác bỏ bởi một cái nhìn cẩn thận về giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo về hôn nhân và MỤC ĐÍCH CHÍNH CỦA NÓ. Chính Giáo Huấn của Giáo Hội Công Giáo về mục đích chính của hôn nhân (và mục đích chính của hành vi hôn nhân) lên án NFP.
Tín điều Công Giáo dạy chúng ta rằng mục đích chính của hôn nhân (và hành vi vợ chồng) là sinh sản và giáo dục trẻ em.
Bên cạnh mục đích chính này, cũng có những mục đích thứ yếu trong hôn nhân, chẳng hạn như hỗ trợ lẫn nhau, sự trầm lắng nhục dục và nuôi dưỡng tình yêu cho nhau. Nhưng những mục đích thứ yếu này phải luôn luôn phục tùng mục đích chính của hôn nhân (sinh sản và giáo dục trẻ em). Đây là điểm chính cần nhớ trong cuộc thảo luận về NFP.
Giáo Hoàng Piô XI, Casti Connubii (#59), ngày 31 tháng 12, 1930: “Vì trong hôn nhân cũng như trong việc sử dụng quyền hôn nhân, cũng có những mục đích thứ yếu khác, chẳng hạn như hỗ trợ lẫn nhau, nuôi dưỡng tình yêu cho nhau, và sự trầm lắng nhục dục mà vợ chồng không bị cấm cân nhắc MIỄN LÀ CHÚNG PHỤC TÙNG MỤC ĐÍCH CHÍNH và miễn là bản chất nội tại của hành động được bảo tồn.”[5]
Do đó, mặc dù NFP không can thiệp trực tiếp vào chính hành vi hôn nhân, như những người bảo vệ nó thích nhấn mạnh, chẳng có gì thay đổi. NFP là sai trái vì thực hành nó đưa mục đích chính của hôn nhân và hành vi hôn nhân (sinh sản và giáo dục trẻ em) phục tùng mục đích thứ yếu.
NFP phục tùng mục đích chính của hôn nhân dưới những điều khác bằng cách cố tình cố gắng lẩn tránh trẻ em (tức là để tránh kết thúc chính) trong khi có quan hệ hôn nhân. Do đó, NFP đảo ngược trật tự do Thiên Chúa trù định. Nó làm chính điều mà Giáo Hoàng Piô XI long trọng giáo huấn không thể được thực hiện cách hợp pháp. Và điểm này bác bỏ tất cả các lập luận được đưa ra bởi những người bảo vệ NFP; vì tất cả các lập luận được đưa ra bởi những người bảo vệ NFP tập trung vào chính hành vi hôn nhân, trong khi họ bỏ qua thực tế là không có gì khác biệt nếu một cặp vợ chồng không can thiệp vào chính hành động nếu họ phục tùng hoặc cản trở MỤC ĐÍCH chính của hôn nhân.
Tóm lại: sự khác biệt duy nhất giữa biện pháp tránh thai nhân tạo và NFP là biện pháp tránh thai nhân tạo làm rối loạn năng lực của chính hành vi hôn nhân, trong khi NFP làm rối loạn mục đích chính của nó (bằng cách đưa sự tạo thành trẻ em xuống dưới những điều khác).
Lời Chúa
Không khó để hiểu rằng sử dụng Kế hoạch hóa Gia đình Tự nhiên để tránh mang thai là sai trái. Hành vi như thế được viết trong trái tim con người là sai trái.
Chúng ta đều biết rằng Thiên Chúa là Đấng cho mở lòng, Đấng tác tử và tác sinh.
Vậy tại sao một người phụ nữ mong ước làm tròn ý muốn của Thiên Chúa lại nỗ lực có phương pháp để tránh Thiên Chúa gửi cho cô một sinh linh mới? Lý do nào cho việc một người nỗ lực hết sức tính toán làm thế nào để có quan hệ hôn nhân mà không thụ thai đứa trẻ Thiên Chúa sẽ gửi? Tại sao một người phụ nữ (hoặc một người đàn ông) tin rằng Thiên Chúa Đấng cho mở lòng cố gắng tránh việc Thiên Chúa mở lòng bằng một nỗ lực tỉmỉ và được sắp xếp, phải dùng đến biểu đồ, chu kỳ và nhiệt kế? Câu trả lời là những người tham gia vào hành vi như NFP quay lưng lại với Thiên Chúa (đó là bản chất của tội lỗi) và từ chối sẵng lòng với ý muốn của Thiên Chúa.
Khi một cặp vợ chồng nỗ lực hết sức để tránh con cái, bằng cách cố tình tránh thời kỳ đậu thai và hạn chế hành vi hôn nhân dành riêng cho thời gian không thụ thai, họ đang phạm tội trái với luật tự nhiên – họ đang phạm tội chống lại Thiên Chúa mà họ biết gửi đến sự sống. NFP do đó là một tội ác chống lại luật tự nhiên, vì Thiên Chúa là tác giả của sự sống và NFP ngăn trở thiết kế của Thiên Chúa.
Mọi người đều biết rằng NFP là tội lỗi
Dưới đây là một vài lời chứng rất thú vị từ những người đã sử dụng NFP hoặc được dạy NFP. Nhận xét của họ đã được lấy từ phần “thư gửi đến toà soạn” của một ấn phẩm chứa một bài viết về NFP. (Tên của họ được đưa ra trong bức thư gốc.) Thư của họ chứng minh rằng những người phụ nữ sử dụng NFP, cũng như những người đàn ông chấp nhận hoặc hợp tác với nó, bị kết án vì tội lỗi của nó bởi luật tự nhiên được viết trong trái tim của họ. Những người sử dụng NFP biết rằng họ đang cản trở ý muốn của Thiên Chúa và thực hành biện pháp tránh thai.[6]
Planned Parenthood và NFP là cá mè một lứa
Bạn có nhận thấy sự tương đồng giữa Planned Parenthood (nhà cung cấp dịch vụ phá thai lớn nhất thế giới) và Kế hoạch hóa Gia đình Tự nhiên? Thuốc tránh thai nhân tạo và thuốc xẩy thai được tìm thấy dưới kệ được đánh dấu là “Kế hoạch hóa Gia đình.” Giống như những người phá thai, những người kế hoạch hoá gia đình xem trẻ em là điều không mong muốn, ít nhất là tạm thời; trong khi những tín hữu chân chính luôn coi họ là một phước lành không thể phủ nhận từ chính Thiên Chúa, dự trù bởi sự quang phòng của Ngài từ vĩnh cửu. “Này, con cái là hồng ân của Chúa; con mình sinh hạ là phần thưởng Chúa ban… Hạnh phúc thay người nào đeo ống đầy loại tên như thế; họ sẽ không nhục nhã…” (Thánh Vịnh 126:3,5).
Trong các ấn phẩm quảng bá NFP, thời kỳ đậu thai của người vợ đôi khi được phân loại là “không an toàn” và “nguy hiểm,” như thể thụ tạo cuộc sống mới được coi là một sự vi phạm nghiêm trọng an ninh quốc gia và một đứa trẻ sơ sinh là một tội phạm nguy hiểm! Điều này thực sự ghê tởm.
Có thể nào thể hiện rõ ràng hơn rằng những người tuân theo loại hành vi và phương pháp này đã quay lưng với Thiên Chúa và trẻ em và thay thế họ bằng trù định ích kỷ của riêng họ?
Từ hôn nhân [matrimony] có nghĩa là “chức vụ làm mẹ.” Những người sử dụng NFP cố gắng tránh hôn nhân (chức vụ làm mẹ) và loại bỏ Thiên Chúa khỏi chính họ.
NFP có hậu quả vĩnh cửu và vô hạn
Những sự việc sau đây có thể là lời buộc tội tốt nhất đối với thực hành “Kế hoạch hóa Gia đình Tự nhiên.”
Nếu những nhà kế hoạch hoá gia đình làm theo ý họ, sẽ không có Thánh Bênađina thành Lộ Đức, người được sinh ra từ một căn ngục trong nhà tù; cũng không phải Thánh Têrêsa thành Lisieux, người được sinh bởi một bà mẹ ốm yếu đã mất ba đứa con liên tiếp; hay Thánh Inhaxiô nhà Loyola, người thứ mười ba trong số mười ba người con;[9] và chắc chắn không phải là thánh Catarina thành Siena, là đứa con thứ hai mươi ba trong một gia đình hai mươi lăm người con![10]
Ví dụ về những vị thánh là những người cuối cùng trong số nhiều người con có thể được nhân lên nhiều trang. Thánh Catarina thành Siena và các vị thánh còn lại, những vị có thể đã bị NFP loại bỏ khỏi sự tồn tại, sẽ nổi lên trong phán quyết chống lại thế hệ sử dụng NFP. Các nhà Kế hoạch hoá Gia đình Tự nhiên chắc chắn sẽ thông báo cho mẹ của Thánh Catarina rằng không thiết cần phải có đến năm đứa con (chứ đừng nói đến hai mươi lăm!), và bà đang lãng phí thời gian của mình để trải qua tất cả những lần mang thai đó.
Chỉ trong vĩnh cửu chúng ta mới biết những linh hồn bất hoại đã bị từ chối một cơ hội trên Trời vì hành vi ích kỷ này. Điều duy nhất có thể ngăn chặn ý muốn của Thiên Chúa toàn năng là ý muốn của các sinh vật bé nhỏ của Thiên Chúa; vì Ngài sẽ không ép buộc con cái đối với bất cứ ai, cũng giống như Ngài sẽ không vi phạm tự do của bất cứ ai. NFP là một tội lỗi có quy mô không lường được. (Chỉ cần suy ngẫm trong một giây: nếu mẹ bạn đã quyết định không có bạn.)
Nếu những nhà kế hoạch hoá gia đình làm theo ý họ, cuộc hiển hiện của Đức Mẹ Fatima sẽ không xảy ra, vì bà xuất hiện với Lucia (người thứ bảy trong số bảy người con), Francisco (người thứ tám trong số chín người con) và Jacinta (người thứ chín trong số chín người con). Những nhà Kế hoạch hoá Gia đình, bằng cách ích kỷ cản trở ý muốn của Thiên Chúa, sẽ xóa bỏ toàn bộ thông điệp Fatima, cũng như mầu nhiệm mặt trời đáng kinh ngạc, cuộc sống phi thường của ba đứa trẻ chăn cừu này, và tất cả các ân điển là sự hoán cải thu được từ sự hy sinh anh hùng của họ. Có bao nhiêu vị thánh, sự hoán cải và phép lạ đã bị xóa bỏ bởi thực hành kiểm soát sinh sản ghê tởm này? Chỉ có Chúa mới biết.
Một người mẹ của nhiều đứa trẻ, người sắp được làm mẹ một lần nữa, đã đến họ đạo Ars (nơi Thánh Gioan Viannê cư trú) để tìm kiếm dũng khí từ ông ấy. Cô ấy nói với ngài, “Chao ôi, con đã cao tuổi rồi, thưa Cha!” Thánh Gioan Viannê trả lời: “Hãy được ủi an con tôi; nếu con biết những người phụ nữ phải xuống Địa Ngục vì họ đã không mang đến thế gian những đứa con mà họ nên trao ban cho đời!”
Kinh Thánh dạy rằng một người phụ nữ có thể được cứu thông qua việc sinh con (nếu cô ấy là người Công Giáo và trong trạng thái ân sủng). Nhưng những người ủng hộ NFP sẽ khiến chúng ta tin rằng một người phụ nữ có thể được cứu thông qua việc lẩn tránh trẻ em. Hơn nữa, cũng giống nhưmột người phụ nữ làm tròn ý muốn của Thiên Chúa và duy trì tình trạng ân điển trong tình trạng hôn nhân sẽ được cứu bởi việc sinh con của cô ấy, thì vô số phụ nữ cũng sẽ bị nguyền rủa vì không sinh những người con mà Thiên Chúa muốn họ có.
Các Kháng bác
Trả lời: Chúng tôi đã trả lời kháng bác này ở trên. Chúng tôi sẽ không lặp lại tất cả những điều đó ở đây. Chúng tôi chỉ đơn giản là tóm tắt một lần nữa rằng NFP bị lên án vì nó đưa MỤC ĐÍCH chính của hôn nhân và hành vi vợ chồng phục tùng những điều khác. Thực tế là NFP không làm gì để cản trở hành vi hôn nhân không liên quan, vì mục đích chính bị rối loạn.
Trả lời: Đúng là Giáo hoàng Piô XII đã dạy rằng Kế hoạch hóa Gia đình Tự nhiên là hợp pháp vì một số lý do nhất định trong một loạt các bài phát biểu khả ngộ vào những năm 1950. Tuy nhiên, điều này không biện minh cho NFP. Các bài phát biểu của Đức Piô XII là khả ngộ, và do đó có thể sai lầm.
Khi nghiên cứu các sai lầm của các Giáo Hoàng trong suốt lịch sử để chuẩn bị cho tuyên bố về sự bất khả ngộ của Đức Giáo Hoàng, các nhà thần học tại Vaticanô I tìm thấy rằng hơn 40 giáo hoàng đã giữ quan điểm thần học sai lầm. Trong một trường hợp khét tiếng về lỗi lầm của giáo hoàng, Đức Gioan XXII đã giữ quan điểm sai lầm rằng người công chính trong Cựu Ước không nhận được Vinh phúc Trực quan cho đến sau cuộc Phán xét Chung. Giáo Hoàng Hônôriô I, một Giáo Hoàng La Mã được bầu hợp lệ, đã khuyến khích lạc giáo đơn ý luận (rằng Chúa Giêsu Kitô của chúng ta chỉ có một thánh ý), mà sau đó ông đã bị Công đồng Thứ ba của Constantinopolis lên án. Nhưng không có lỗi nào trong số này được giảng từ Tông Toà Thánh Phêrô, cũng giống như bài phát biểu của Đức Piô XII với các nữ hộ sinh Ý không phải là một tuyên bố từ Tông Toà Thánh Phêrô.
Một trong những trường hợp khét tiếng nhất của lỗi lầm giáo hoàng trong lịch sử Giáo hội là “Công đồng Xác chết” năm 897. Đó là khi xác chết của Giáo Hoàng Formôsô – người theo tất cả các sử liệu là một giáo hoàng thánh thiện và tận tụy – đã bị Giáo Hoàng Stêphanô VII lên án sau khi qua đời vì một số việc được cho là vi phạm giáo luật.[11] Giáo hoàng Sergiô III cũng ủng hộ phán quyết này, trong khi sau đó Giáo hoàng Thêôđorô II và Gioan IX phản đối nó. Điều này sẽ cho chúng ta thấy rất rõ rằng không phải mọi quyết định, bài phát biểu, ý kiến hoặc phán xét của một giáo hoàng là bất khả ngộ.
Ta có thể lập luận rằng Đức Piô XII là một trong những giáo hoàng yếu kém nhất trong lịch sử giáo hội. (Chúng tôi không bao gồm các nguỵ giáo hoàng Vaticanô II, vì bọn chúng không phải là giáo hoàng). Đức Piô XII cho phép lạc giáo và thuyết duy tân phát triển; ông đã hiện đại hóa phụng vụ tuần thánh; ông dạy rằng thuyết tiến hoá hữu thần có thể được giữ và giảng dạy bởi các linh mục và nhà thần học Công giáo; và ông cho phép việc chối bỏ tín điều bên ngoài Giáo Hội Không có Ơn cứu độ lan tràn, chỉ để ví dụ. Ông là một giáo hoàng hợp lệ, nhưng ông thực sự là cầu nối cho Công đồng bội giáo Vaticanô II và các nguỵ giáo hoàng đã áp buộc nó. Những người nghĩ rằng họ tuân theo một điều gì đó là an toàn đơn giản bởi vì nó đã được khuyến nghị bởi các nhà thần học trước Vaticanô II hoặc bởi Giáo Hoàng Piô XII trong quyền hạn khả ngộ của mình là sai lầm. Mặc dù sự bùng nổ của Đại Bội giáo xảy ra tại Vaticanô II, nhưng lực đẩy cho sự rời bỏ khỏi Đức tin đã trong chuyển động trước Vaticanô II, như được chứng minh từ nhiều cuốn sách trước Vaticanô II thúc đẩy lạc giáo và thuyết duy tân bị lên án. Hầu hết các linh mục đã rơi vào lạc giáo từ những năm 1950, như được chứng minh bởi thực tế là hầu hết tất cả họ đều chấp nhận và đi theo tôn giáo mới của Giáo hội Vaticanô II khi nó được áp buộc.
Điểm mấu chốt vẫn là đó là một giáo huấn bất khả ngộ của Giáo Hội Công Giáo rằng mục đích chính của hôn nhân (và hành vi vợ chồng) là cho sự sinh sản và giáo dục con em. Kế hoạch hóa Gia đình Tự nhiên đặt mục chính của hôn nhân và hành vi vợ chồng dưới những thứ khác và đó là trọng tội.
Trả lời: Chúng tôi sẽ trích dẫn một lần nữa Giáo Hoàng Piô XI để đáp lại kháng bác này.
Không một lý do gì, dù nghiêm trọng đến đâu, có thể được đưa ra rằng bất cứ điều gì về bản chất là xấu xa có thể trở nên tốt lành. NFP đưa mục chính của hôn nhân và hành vi vợ chồng phục tùng dưới những điều khác và đó là trọng tội.
Và điều này đưa chúng ta đến một điểm khác. Nếu NFP không phải là một tội lỗi – nếu nó chỉ đơn giản là “tự nhiên,” như họ nói – thì tại sao các cặp vợ chồng không thể sử dụng NFP trong toàn bộ cuộc hôn nhân và không có con? Nếu NFP không phải là một tội lỗi, thì mọi phụ nữ hoàn toàn có thể tự do sử dụng phương pháp tránh thai này để loại bỏ tất cả trẻ em để thậm chí không có một đứa trẻ được sinh ra. Tuy nhiên, về cơbản tất cả những người bảo vệ NFP sẽ thừa nhận rằng sẽ là vô đạo đức và trọng tội khi sử dụng NFP để tránh tất cả sinh linh mới. Nhưng khi họ thừa nhận điều này, họ thừa nhận rằng NFP là một tội lỗi; nếu không, hãy để họ thú nhận rằng nó có thể được sử dụng bởi tất cả các cặp vợ chồng vì bất kỳ lý do gì để tránh tất cả trẻ em.
Trả lời: Đúng, Giáo Hoàng Piô XI đã dạy rằng các cặp vợ chồng có thể sử dụng quyền hạn hôn nhân của họ trong thời kỳ không đậu thai của người vợ (hoặc khi có khiếm khuyết về tự nhiên hoặc tuổi tác ngăn cản sinh linh mới được thụ thai). Nhưng ông đã không dạy rằng họ có thể lên kế hoạch hạn chế hành vi hôn nhân trong thời kỳ không đậu thai để tránh mang thai, như trong Kế hoạch hóa Gia đình Tự nhiên.
Đây là lý do tại sao, trong chính đoạn được trích dẫn ở trên, Giáo Hoàng Piô XI nhắc lại rằng tất cả các việc sử dụng quyền hạn hôn nhân – bao gồm cả khi sinh linh mới không thể được đưa đến do thời gian hay bản chất – phải giữ mục đích thứ cấp của hôn nhân phục tùng mục đích chính! Lời dạy này là đòn kết liễu cho NFP, vì bản thân NFP là việc phục tùng mục đích chính của hôn nhân (sinh sản và giáo dục trẻ em) dưới những việc khác. Vì vậy, tóm lại, đoạn trên không dạy NFP, mà chỉ đơn thuần truyền bá nguyên tắc rằng các cặp vợ chồng có thể sử dụng quyền kết hôn của họ bất cứ lúc nào. Hơn nữa, trong cùng một đoạn văn, đoạn mà những người bảo vệ NFP sai lầm bóp méo để biện minh cho thực hành kiểm soát sinh sản tội lỗi của họ, Giáo Hoàng Piô XI lên án NFP bằng cách nhắc lại lời dạy về mục đích chính của hôn nhân, mà NFP phục tùng dưới những thứ khác.
Trả lời: Nếu một cặp vợ chồng đang sử dụng Kế hoạch hóa Gia đình Tự nhiên để mang thai, điều đó là hợp lệ bởi vì trong trường hợp này, họ đang làm hết sức mình để hoàn tất mục đích chính của hôn nhân (sinh sản và giáo dục trẻ em). Nếu một cặp vợ chồng đang sử dụng Kế hoạch hóa Gia đình Tự nhiên để tránh mang thai, điều đó là bất hợp pháp bởi vì trong trường hợp này, họ đang làm hết sức mình để tránh mục đích chính của hôn nhân (sinh sản và giáo dục trẻ em).
Trả lời: Mù mà lại dắt mù, cả hai sẽ lăn cù xuống hố (Mátthêu 15:14). Các cặp vợ chồng sử dụng NFP biết rằng họ đang phạm tội. Nó được viết trong trái tim họ. Họ không cần một linh mục nói với họ rằng điều đó là sai. Đúng, các linh mục cố tình hướng dẫn mọi người rằng NFP ổn và bảo vệ phương pháp tránh thai này cũng có tội, nhưng điều này không xoá bỏ trách nhiệm cho các cặp vợ chồng làm theo lời khuyên tồi tệ của họ.
Đây là lý do tại sao chúng tôi nhấn mạnh rằng những người đang quyên góp tiền cho các linh mục “truyền thống,” những người quảng bá hoặc chấp nhận NFP phải chấm dứt ngay lập tức nếu không muốn sẻ chia tội lỗi của họ và theo họ xuống Địa ngục, vì những linh mục này đang dẫn linh hồn đến Địa ngục.
Điều này bao gồm các linh mục của Huynh đoàn Thánh Piô X, Huynh đoàn Thánh Piô V, C.M.R.I. và hầu như tất cả các linh mục độc lập trong thời kỳ Đại Bội Giáo này.
Kết luận
Các cặp vợ chồng đã sử dụng NFP, nhưng những người quyết tâm thay đổi, không nên tuyệt vọng. NFP là một tội ác, nhưng Thiên Chúa thương xót và sẽ tha thứ cho những người cương quyết thay đổi cuộc sống và thú nhận tội lỗi của họ. Những người đã sử dụng NFP cần phải ăn năng vì tội lỗi của họ và thú nhận với một linh mục được truyền chức hợp lệ rằng họ đã thực hành kiểm soát sinh sản (trong bao lâu điều đó được sử dụng). Cả người vợ và người chồng đồng ý với việc sử dụng NFP cần phải xưng tội. Sau đó, họ nên cởi mở với tất cả con trẻ mà Thiên Chúa muốn ban cho họ – mà không cần quan tâm hay tìm hiểu về biểu đồ, chu kỳ, đậu thai hay không đậu thai, trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, để Thiên Chúa kế hoạch hoá gia đình cho họ.
Chú thích cuối Chương 42:
[1] The Papal Encyclicals, by Claudia Carlen, Raleigh: The Pierian Press, Quyển 5, tr. 227.
[2] The Papal Encyclicals, Quyển 3 (1903-1939), tr. 399-400.
[3] The Papal Encyclicals, Quyển 3 (1903-1939), tr. 394.
[4] The Papal Encyclicals, Quyển 3 (1903-1939), tr. 399.
[5] The Papal Encyclicals, Quyển 3 (1903-1939), tr. 394.
[6] http://www.seattlecatholic.com
[7] Jurgens, The Faith of the Early Fathers, Collegeville, MN, The Liturgical Press, 1970, Quyển 3:2233.
[8] Denzinger, The Sources of Catholic Dogma, B. Herder Book Co., Thirtieth Edition, 1957, no. 1159.
[9] John. J. Delaney, Pocket Dictionary of Saints (abridged edition), New York: Double Day, 1980, tr. 251.
[10] John. J. Delaney, Pocket Dictionary of Saints (abridged edition), 110.
[11] Warren H. Carroll, A History of Christendom, Quyển 2 (The Building of Christendom), Front Royal, VA: Christendom Press, 1987, tr. 387.
[12] The Papal Encyclicals, Quyển 3 (1903-1939), tr. 399.
[13] The Papal Encyclicals, Quyển 3 (1903-1939), tr. 394.