^
^
Lạc giáo của Phanxicô | Lạc giáo trong Vaticanô II | Lạc giáo của Biển Đức XVI | Lạc giáo của Gioan Phaolô II | Từ điển thuật ngữ nguyên tắc | Sự thật về Sơ Lucia giả mạo | Kế hoạch hoá gia đình tự nhiên (NFP) là tội lỗi | Lòng thương xót Chúa của sơ Faustina là giả | Cửa hàng online và thông tin liên lạc |
Các bước trở lại đạo | Nơi lãnh nhận các bí tích | Kinh Mân Côi | Không có Ơn cứu độ bên ngoài Giáo hội | Thuyết Trống toà là gì | Thánh lễ Mới không thành sự | Nghi thức truyền chức linh mục mới | E-Exchanges | ![]() |
Kinh thánh bác bỏ thuyết vô tri bất khả triệt – và bằng chứng cho việc Tin Mừng được loan bá ngay lập tức trên toàn thế giới
Thiên Chúa đã mặc khải rằng tất cả những ai mong muốn được cứu rỗi đều phải tin vào Đức Tin Công Giáo (mà ở dạng đơn giản nhất gồm mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa và Mầu nhiệm Nhập Thể – như được tuyên tín trong Kinh Tin Kính của Thánh Athanasiô). Một người Công giáo không nên gặp khó khăn trong việc phải tin rằng Thiên Chúa sẽ đảm bảo rằng những linh hồn thiện chí sẽ được nghe tiếng của Người và đón nhận Đức tin Công giáo.
Quả thật, chỉ riêng trong Kinh Tin Kính, người Công giáo đã phải tuyên xưng nhiều mầu nhiệm siêu nhiên: Đức Mẹ đồng trinh sinh Con, Đức Chúa sống lại từ cõi chết, Đức Chúa lên trời. Người Công giáo còn buộc phải tin vào Thánh Kinh, vốn chứa đầy các phép lạ và hiện tượng siêu nhiên. Bí tích Thánh Thể – tức sự hiện diện thực sự của Đức Kitô trong Mình thánh – cũng là một phép lạ hằng ngày mà người Công giáo truyền thống luôn tin nhận.
Thế thì vì sao ta lại khó mà tin rằng Thiên Chúa có thể – ngay cả theo một cách siêu nhiên – soi sáng cho những linh hồn thiện chí, dù họ ở nơi đâu, để họ nhận biết chân lý và từ bỏ sự vô tri? Tên của Chúa Giêsu là danh duy nhất dưới gầm trời mà nhờ đó con người được cứu độ (Cv 4:12); và ai không bước qua cửa là Đức Giêsu là kẻ trộm và kẻ cướp ( Gioan 10).
Trong một trường hợp nổi tiếng, Bà Maria thành Agreda được tin là đã được dịch chuyển cách mầu nhiệm từ tu viện của bà tại Tây Ban Nha đến vùng Texas hoang dã để giảng dạy người bản địa về Đức Tin chân thật. “Có một bức bích họa lớn phía trên cổng chính của Nhà thờ Chính tòa Ft. Worth mô tả cuộc viếng thăm dài ngày này, và một phiên bản khổng lồ của nó cũng được treo tại nhà thờ St. Anne ở Beaumont, Texas.”[2] Những việc dịch chuyển này được cho là đã kéo dài 11 năm (từ 1620 đến 1631), từ Texas đến New Mexico và Arizona – trải dài hơn một ngàn dặm.
Tân Ước cũng dạy rõ ở nhiều nơi rằng Tin Mừng, ngay từ thời các Thánh Tông Đồ, đã được rao giảng khắp toàn thế giới.
Tân Ước cho thấy rõ rằng Tin Mừng đã được truyền đến “tận cùng mặt đất” (Cv 1), “mọi tạo vật dưới gầm trời” (Cl 1), và “đến khắp thế gian” (Rm 10). Rất có thể các Tông Đồ đã được Thiên Chúa dịch chuyển một cách siêu nhiên đến tận cùng mặt đất để rao giảng Tin Mừng và rửa tội, bằng chính phương tiện đã đưa tiên tri Êlia khỏi mặt đất – một chiếc xa bằng lửa.
Thật vậy, chúng ta biết Thánh Philipphê Tông Đồ cũng đã từng được Chúa Thánh Thần đưa đi một cách siêu nhiên, sau khi ông rửa tội cho viên thái giám của nữ hoàng Candace.
Sách Công vụ chương 2 cũng cho ta biết rằng, vào ngày lễ Ngũ Tuần, người Do Thái từ “mọi dân tộc dưới gầm trời” (mà đã đến Giêrusalem để mừng lễ) đã được hoán cải và nhận phép Rửa tội.
Sau khi những linh hồn này – thuộc “mọi dân tộc dưới gầm trời” – được hoán cải và lãnh nhận phép rửa, họ trở về quê hương mình và loan truyền Tin Mừng, góp phần vào việc truyền bá Tin Mừng cách tức thì đến các vùng đất xa xôi trên toàn thế giới. Đó là lý do vì sao, chẳng hạn, ta có bằng chứng về sự hiện diện của Kitô giáo tại vùng Parthia (Iran ngày nay), cùng khoảng thời gian với những tiếp xúc sớm nhất từ các quốc gia phương Tây sau thời Chúa Kitô.
Vì những linh hồn ấy đã được hoán cải theo cách cực kỳ mạnh mẽ, đến nỗi họ “sửng sốt” (Cv 2:12) – và “mọi người đều kinh sợ, vì các Tông đồ đã làm nhiều điềm thiêng dấu lạ.” (Cv 2:43) – họ đã trở thành những nhà truyền giáo đầy nhiệt thành mà Thiên Chúa dùng để loan báo Đức Tin và ban phép Rửa tội tại chính quê hương xa xôi của họ. Mà điều đó chưa kể đến chính các cuộc truyền giáo của các Thánh Tông Đồ tại những vùng đất ngoài ranh giới của Đế quốc La Mã. Chẳng hạn, Thánh Anrê đã rao giảng tận vùng Ukraine.[4]
“Điểm đáng chú ý nhất về danh sách này là, ngoại trừ ông Philipphê, tất cả các Thánh Tông Đồ mà lịch sử còn lưu giữ đôi chút ký ức về hoạt động truyền giáo của họ đều đã ra đi vượt khỏi biên cương của Đế quốc La Mã… Sự thật có vẻ là (như chúng ta nên chấp nhận, dù với tầm nhìn hạn hẹp chúng ta có thể thấy thật khó tin) ChúaKitô thật sự muốndiễn đạt chính xác điều Ngườiđã nói khi truyền cho các môn đồsaukhi Ngườiphục sinh: loan báo TinMừngđến tận cùng mặtđất; và Người không có ý chờ đến khi có máy bay và truyền hình để việc đó có thể được làm theo cách dễ dàng hơn.”[6]
Đó là lý do vì sao các Giáo phụ nổi bậc như Thánh Giustinô Tử đạo (đã trích dẫn ở trên), Thánh Irênêô, Thánh Clementê và nhiều vị khác đã viết:
Chúng ta cũng biết rằng Chúa Thánh Thần đã trực tiếp ngăn cản các Thánh Tông Đồ rao giảng Tin Mừng ở một số nơi nhất định – rất có thể là do việc các vùng đó thiếu đi lòng thành.
Ngược lại, ta biết rằng Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn cách siêu nhiên cho các Tông Đồ đi đến những nơi có những linh hồn thành tâm đang cần nghe Tin Mừng – chẳng hạn như tại Macedonia.
Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là ta không nên rao giảng Tin Mừng cho ai đó nếu không có một sự soi sáng siêu nhiên. Điều được minh họa ở đây chỉ là: Thiên Chúa thấu suốt mọi sự – Người biết rõ linh hồn nào thiện chí và linh hồn nào thiếu lòng thành; Người biết ai thật lòng khao khát chân lý trong Tin Mừng và ai thì không. Và không có điều gì ngăn cản Thiên Chúa mang chân lý của Người đến cho những ai thành tâm tìm kiếm. Chính Thiên Chúa sẽ hằng ngày thêm vào Hội Thánh những người được tiền định để được cứu độ!
Thánh Phaolô cũng dạy rằng con người (tức là những người đã đến tuổi lý trí và mong muốn được cứu độ) không thể có đức tin, mà là thiết yếu để được cứu độ, nếu họ chưa được nghe biết về Chúa Kitô. “Hoặc làm sao họ tin vào Đấng mà họ chưa được nghe?” (Rôma 10). Vì tất cả những ai đã đến tuổi lý trí đều phải nghe Lời Chúa Kitô để có đức tin (Rôma 10), nên họ phải nghe Lời đó để được cứu độ – bởi không ai được nên công chính nếu không có đức tin – đức tin duy nhất chân thật của Giáo hội Công giáo.
Sự thật rằng ngoài Đức Tin Công Giáo không ai có thể được cứu độ cũng là lý do tại sao có bằng chứng cho thấy Kitô giáo đã hiện diện ở Tân Thế Giới từ rất lâu trước khi Christophe Colombo khám phá ra nó. Thánh Brendan Nhà Hàng Hải (484–577) được tường thuật là đã vượt Đại Tây Dương từ rất lâu trước thời của Colombo,[11] và có bằng chứng khảo cổ đã được khai quật để củng cố cho điều này.
Vào thế kỷ 15 và 16, các nhà chinh phục Công giáo của Châu Mỹ – những người cũng đã tiêu diệt đế chế Aztec – đã phát hiện ra nhiều bằng chứng cho thấy Kitô giáo cổ xưa đã từng hiện diện ở Tân Thế Giới.
Ngày nay, người ta đã tìm thấy bằng chứng rằng Kitô giáo đã đến Trung Hoa sớm nhất ngay từ thế kỷ I hoặc II. “Một giáo sư thần học người Trung Quốc cho biết lễ Giáng Sinh đầu tiên đã được khắc họa trên một bức phù điêu đá từ triều đại Đông Hán (năm 25–220 SCN). Trong hình khắc… một người nam và một người nữ ngồi gần một vật giống như máng cỏ, và từ phía bên trái, có ba người được cho là ‘ba đạo sĩ’ đang tiến đến, tay mang lễ vật, ‘một mục đồng’ theo sau, còn ‘những kẻ sát nhân’ thì quỳ gối thành hàng ở phía bên phải.”[13] Thật vậy, cả Thánh Phanxicô Xaviê (1506–1552) và Linh mục Matteo Ricci (1552–1610) – hai vị thừa sai Dòng Tên có ảnh hưởng sâu rộng – đều tường trình trong các tác phẩm của họ rằng họ tìm thấy bằng chứng cho thấy Thánh Tôma đã thành công đến Trung Hoa.[14]
Vậy là, qua bốn cách sau đây, Tin Mừng đã được loan truyền đến tận cùng thế giới trong thời kỳ thuộc về Mặc Khải của Chúa Giêsu Kitô – tức là thời kỳ kết thúc với cái chết của vị Tông Đồ cuối cùng:
Chúng ta thấy sự can thiệp siêu nhiên trực tiếp của Thiên Chúa để soi sáng những linh hồn thiện chí qua trường hợp của ông Cornêliô và Thánh Phaolô:
Ảnh ông Cornêliô
Chúng ta cũng phải lưu ý đến một yếu tố thứ năm rất quan trọng, yếu tố này làm sáng tỏ thêm vấn đề: Chúa Kitô dạy rằng phần lớn nhân loại là những người thiếu lòng thành và vì thế bị luận phạt. Chính Chúa Giêsu đã mặc khải rằng ít người tìm thấy con đường cứu độ, như được ghi lại trong Mátthêu 7:13, và các bậc thầy về mặt thiêng liêng vĩ đại của Giáo hội Công giáo cũng đã dạy rằng không chỉ phần lớn nhân loại bị hư mất (tức là tất cả những ai chết mà không thuộc về đức tin Công giáo), mà ngay cả phần lớn những người tự xưng là Công giáo cũng sẽ không được cứu độ.
Vì thực tế đáng buồn trong lịch sử nhân loại là rất ít người thực sự thuộc về sự thật, điều này cũng được thấy rõ khi đọc Cựu Ước: các câu chuyện kể về việc rất ít người được xét là xứng đáng để vào Đất Hứa, và về việc phần lớn dân được Thiên Chúa chọn lại không trung thành với Luật Chúa, thường xuyên sa vào tội thờ ngẫu tượng – tất cả những điều đó giúp lý giải tại sao Thiên Chúa lại để một số dân tộc trên thế gian sống trong tình trạng không biết đến Tin Mừng. Đó là bởi vì nơi ấy không có linh hồn nào có thiện chí. Vì vậy, cónhững vùng đất ở Tân Thế Giới không được rao giảng Tin Mừng, là do không có người được tuyển chọn ở đó.
Những lời trong Tân Ước nói rằng Tin Mừng đã được rao giảng cho khắp thụ tạo dưới gầm trời, và lời Chúa nói rằng các Tông Đồ sẽ làm chứng về Người đến tận cùng thế gian – những lời cuối cùng của Người trước khi Thăng Thiên – cho thấy rằng có thể một số Tông Đồ đã được Thiên Chúa dịch chuyển cách mầu nhiệm đến những vùng đất xa xôi nơi có những linh hồn thiện chí đang chờ đợi. Nhưng dù ta hiểu những đoạn Kinh Thánh ấy theo nghĩa nào đi nữa, thì sự thật vẫn là: Tin Mừng chỉ được rao giảng ở nơi có người thành tâm, và nơi nào không có Tin Mừng thì nơi đó cũng không có ơn cứu độ.
Tertullian, Chống lại người Do Thái (khoảng năm 200):
“Còn ai khác để cho mọi dân tộc tin theo, nếu không phải là Đức Kitô, Đấng đã đến? Những người Parthia, người Medes, người Elam; và những ai cư ngụ ở Mesopotamia, Armenia, và Cappadocia; những người sống ở Pontus và Tiểu Á, ở Phrygia và Pamphylia; những người khách lạ ở Ai Cập và cư dân tại phần đất châu Phi bên kia Cyrene; người Rôma và những người ngoại trú; đúng vậy, cả người Do Thái tại Giêrusalem và những dân tộc khác: đến thời điểm này, thậm chí các bộ tộc khác nhau của người Gutli, ranh giới rộng lớn của người Moor, và toàn thể Tây Ban Nha, cùng các dân tộc của Gaul; và những vùng đất của người Briton – vốn không thể tiếp cận bởi người Rôma – nhưng đã khuất phục dưới chân Đức Kitô; và cả người Sarmatia, Dacia, Đức, Scythia, cùng nhiều bộ tộc và xứ sở xa xôi và những hòn đảo mà chúng ta thậm chí còn không biết tên và khó lòng kể hết…”[15]
Thánh Louis de Montfort, Bí Mật Kinh Mân Côi, khoảng năm 1710:
“… không ai có thể được cứu rỗi nếu không biết đến Đức Giêsu Kitô.”[16]
Luca 24:47: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.”
Công vụ 4:12: “Người là Đấng cứu độ; ngoài Người ra, không ai khác có thể cứu được. Vì dưới gầm trời này, không có danh nào khác được ban cho nhân loại, để chúng ta nhờ danh đó mà được cứu độ.”
Chú thích:
[1] Jurgens, The Faith of the Early Fathers, Vol. 1: 144a.
[2] Michael Malone, The Only-Begotten, p. 329.
[3] Warren H. Carroll, A History of Christendom, Christendom Press, Vol. 1 (The Founding of Christendom), p. 429, note 9.
[4] Warren H. Carroll, A History of Christendom, Vol. 1 (The Founding of Christendom), p. 435, note 47.
[5] Warren H. Carroll, A History of Christendom Vol. 1 (The Founding of Christendom), p. 406.
[6] Warren H. Carroll, A History of Christendom, Vol. 1(The Founding of Christendom), p. 406.
[7] Jurgens, The Faith of the Early Fathers, Vol. 1: 191-192.
[8] Jurgens, The Faith of the Early Fathers, Vol. 1: 405.
[9] Denzinger 1793.
[10] Denzinger 1000.
[11] The Catholic Encyclopedia, “Brendan,” Volume 2, 1907, p. 758.
[12] Francis Anson, Guadalupe: What Her Eyes Say, Manila: Sinag-tila Publishers, Inc., 1994, p. 62.
[13] Wang Shanshan, “Stones Indicate earlier Christian Link?”, China Daily, http://www2.chinadaily.com.cn/english/doc/2005-12/22/content_505587.htm
[14] http://www2.chinadaily.com.cn/english/doc/2005-12/22/content_505587_4.htm
[15] Jurgens, The Faith of the Early Fathers, Vol. 1: 320a.
[16] St. Louis De Montfort, The Secret of the Rosary, Tan Books, p. 65.