^
^
| Lạc giáo của Phanxicô | Lạc giáo trong Vaticanô II | Lạc giáo của Biển Đức XVI | Lạc giáo của Gioan Phaolô II | Từ điển thuật ngữ nguyên tắc | Sự thật về Sơ Lucia giả mạo | Kế hoạch hoá gia đình tự nhiên (NFP) là tội lỗi | Lòng thương xót Chúa của sơ Faustina là giả | Cửa hàng online và thông tin liên lạc |
| Các bước trở lại đạo | Nơi lãnh nhận các bí tích | Kinh Mân Côi | Không có Ơn cứu độ bên ngoài Giáo hội | Thuyết Trống toà là gì | Thánh lễ Mới không thành sự | Nghi thức truyền chức linh mục mới | E-Exchanges | ![]() |
Lịch sử Chính thống giáo
Đế quốc Byzantine — hay Đông La Mã — vốn bao gồm phần lớn phía đông Địa Trung Hải
Sau khi vua Salômôn băng hà vào năm 931 trước Thiên Chúa, mười chi tộc miền Bắc đã nổi loạn chống lại nhànước Israel thống nhất. Những chi tộc này lập nên thực thể thường được gọi là Vương quốc Israel hay Vương quốc Samaria, còn vương quốc miền Nam, gọi là Giuđa, thì vẫn trung thành với Rơhôbôam, con vua Salômôn.
Vương quốc Israel (màu xanh) và Vương quốc Giuđa (màu vàng)
Vương quốc Israel phản loạn ở miền Bắc đặt kinh đô tại Samaria. Người dân nước này rơi vào tình trạng thờ ngẫu tượng trầm trọng. Họ tách mình khỏi việc thờ phượng thật Thiên Chúa bằng cách dựng lên hai đền thờ hay thánh điện dành riêng cho ngẫu tượng. Vì sự phản nghịch chống lại Thiên Chúa, vì đã tự cắt mình khỏi việc thờ phượng thật và khỏi Đền Thờ thật, Thiên Chúa đã trừng phạt họ bằng sự hủy diệt của toàn thể đất nước. Điều này đã được ngôn sứ Amốt tiên báo, như được viết trong Amốt 9:8.
Và điều đó đã xảy ra. Vua Át-sua đã bao vây vương quốc tội lỗi ở miền Bắc và hủy diệt nó. Vương quốc Israel chấm dứt vào năm 722 trước Thiên Chúa. Mười chi tộc này trở thành Mười Chi Tộc Thất Lạc của Israel.
Vương quốc Samaria bị người Assyria hủy diệt.
Sự hủy diệt của vương quốc tội lỗi miền Bắc có thể sánh với biến cố thành Constantinopolis [Istanbul ngày nay] và Đế quốc Byzantine sụp đổ vào năm 1453, đúng ngày Lễ Hiện Xuống – chẳng bao lâu sau khi rất nhiều người Hy Lạp đã phản nghịch chống lại điều mà Công Đồng Chung Florence và chính các vị lãnh đạo của họ đã long trọng chấp thuận, liên quan đến chân lý về Filioque [tín điều rằng Chúa Thánh Thần cùng do Chúa Cha và Chúa Con mà ra] và Quyền Tối Thượng của Đức Giáo hoàng.
Thực vậy, đây là một trích dẫn của Giám mục Hilarion Alfeyev, một thần học gia nổi bật của phái “Chính thống giáo” Nga. Ông là một tổng giám mục (metropolitan) danh nghĩa trong hàng ngũ Chính thống Nga, và là thành viên thường trực của Thượng Hội Đồng của Tòa Thượng Phụ Moskva. Ông thừa nhận rằng Công Đồng Florence có đầy đủ các dấu chỉ của một Công Đồng Chung.
Thế nhưng, ông ta không chấp nhận giáo huấn từ Florence vì ông ta chủ trương một quan điểm lạc giáo khủng khiếp, tức “Thuyết Tiếp Nhận” (Reception Theory). Theo đó, các Giáo Hội địa phương có thể lựa chọn không đón nhận giáo huấn của một Công Đồng Chung – và rằng một công đồng chỉ trở thành Công Đồng Chung, ràng buộc mọi người phải tuân theo, khi đủ số các Giáo Hội địa phương quyết định đón nhận giáo huấn ấy.
Lập trường ấy, dĩ nhiên, sẽ làm cho mọi thẩm quyền giảng dạy buộc buộc của phẩm trật Giáo Hội trở nên vô hiệu và rỗng tuếch. Tuy nhiên, ông vẫn thừa nhận:
Như video của chúng tôi về “Chính thống giáo và các Công Đồng” đã chứng minh, các giáo hội Chính thống ly khai đã đồng thuận với Sắc chỉ Hiệp nhất ở Florence, vốn dạy về Filioque và Quyền Tối Thượng của Đức Giáo hoàng.
Đây chỉ đơn giản là sự thật.
Thế nhưng, nhiều người trong Đế quốc Byzantine đã phản loạn. Họ kháng cự những gì Giáo Hội của Thiên Chúa và chính các vị lãnh đạo của họ đã đồng ý. Việc phải chấp nhận định chế do Chúa Kitô thiết lập (tức Quyền Giáo hoàng), cũng như chân lý việc nhiệm xuất của Chúa Thánh Thần, đối với họ mà nói, là một sự sỉ nhục.
Vì sự ngoan cố ấy, Thiên Chúa đã để cho toàn thể Đế quốc Byzantine bị tiêu diệt vào chính ngày Lễ Hiện Xuống – đại lễ kính Chúa Thánh Thần.”
Thánh Rôbêrtô Bellarminô, Tiến sĩ Hội Thánh, đã viết về vấn đề này. Sau đây là bản dịch từ nguyên bản Latin:
Việc Constantinopolis thất thủ đúng vào ngày Lễ Hiện Xuống (lễ kính Chúa Thánh Thần) hiển nhiên là một dấu chỉ trọng đại từ Thiên Chúa rằng lập trường Công giáo là chính xác, và rằng người Hy Lạp đã phải chịu sự hủy diệt như một hình phạt vì lạc giáo của họ.
Tuy nhiên, một số người ly khai tìm cách né tránh sự thật này bằng việc ngụy biện hoặc nói dối trắng trợn. Một cá nhân tự nhận là “Chính thống giáo” đã phát biểu như sau:
Không, đó không phải là điều chúng tôi lập luận. Chúng tôi chưa từng nói rằng không hề có nỗ lực cưỡng hành việc hiệp nhất. Dù những nỗ lực ấy lẽ ra có thể mạnh mẽ và hữu hiệu hơn, vẫn đã có những bước được thực hiện nhằm áp đặt Hiệp ước Hiệp nhất Florence.
Chúng tôi đã nói rất rõ: hiệp nhất thậm chí còn được long trọng công bố tại nhà thờ chính tòa ở Constantinopolis vào ngày 12 tháng 12 năm 1452. Đó là một bằng chứng nữa cho thấy các Giáo Hội Giáo đã chính thức chấp nhận Florence. Điều chúng tôi nêu ra là: bất chấp hiệp ước, phần đông dân chúng vẫn phản đối.
“Tôi coi công đồng thánh thiện và đại kết này [Florence] không thua kém gì so với bất cứ công đồng nào trước đó.” — Trích theo Sergey Dezhnyuk, Council of Florence: The Unrealized Union, tr. 63
Sự phản đối dữ dội đến mức đôi khi các chức sắc trong Giáo Hội chủ trương hiệp nhất phải lánh mặt khỏi nhà thờ của họ. Trong lòng quá nhiều người, không hề có thiện chí đón nhận giáo huấn chính thức của Giáo Hội về Quyền Giáo hoàng và về cuộc nhiệm xuất của Chúa Thánh Thần; họ vẫn kiêu căng phản loạn.
Như sử gia Chính thống Giáo Edward Siecienski ghi nhận:
Người ta còn thuật lại lời dân gian thời ấy:
Chà, họ đã nhận đúng điều họ mong muốn!
Thành Constantinopolis bị người Hồi giáo xâm chiếm
Thánh Rôbêrtô Bellarminô cũng nhận xét rằng người Hy Lạp thường có lúc đồng ý với chân lý, rồi lại quay về với bãi nôn mửa của mình [từ Châm ngôn 26:11: Con chó quay lại chỗ nó mửa, đứa ngu lặp lại chuyện ngu đần — người dịch]. Vì vậy, tuy đã có nhiều nỗ lực nhằm thực thi Hiệp nhất Florence, một bộ phận dân chúng vẫn nổi loạn chống lại những gì Công Đồng Chung của Hội Thánh Thiên Chúa đã dạy.
Và, thành thực mà nói, ta vẫn thường thấy cùng một tinh thần phản loạn ấy ở rất nhiều người Chính thống giáo ngày nay: phô bày sự kiêu ngạo sâu xa và thiếu đức mến. Đó là vì họ được đặc trưng bởi sự chống đối với định chế mà Đức Giêsu Kitô đã thiết lập: Quyền Giáo hoàng.
Thiếu đức khiêm nhường để quy phục thẩm quyền mà Thiên Chúa đã thiết lập, họ dựng nên một “phẩm trật” cho riêng mình—một cơ cấu không có thẩm quyền và không thể ban ơn tha thứ cho ai. Bởi thế, lịch sử của họ (kể từ khi tách khỏi Quyền Giáo hoàng) là lịch sử sa vào ách nô lệ ngày một nặng nề hơn.
Những kẻ ly khai tiếp tục mất dần lãnh thổ—và mất dần tự do—cho đến khi đế quốc của họ bị hủy diệt hoàn toàn vào chính ngày Đại Lễ kính Chúa Thánh Thần.
Thế nhưng, một số người Chính thống giáo nêu ra một lập luận trong tuyệt vọng: rằng Constantinopolis sụp đổ vào Lễ Hiện Xuống là do việc Hiệp nhất; nghĩa là, theo họ, vì hoàng đế và/hoặc giới giáo quyền đã chấp nhận tín điều Filioque. Nhưng lập luận này là vô lý. Ta hãy suy ngẫm.
Rôma đã chính thức dạy về tín điều Filioque từ rất lâu trước Công đồng Florence vào thế kỷ XV.
Ngay cả tại Florence, Đức Giáo hoàng cũng là thẩm quyền quan trọng nhất đứng sau việc hiệp nhất. Vậy nếu Thiên Chúa trừng phạt bằng sự hủy diệt vì việc dạy hay đón nhận thuyết Filioque, tại sao thành Rôma và Vatican vẫn tồn tại như trung tâm Kitô giáo, và không bị Hồi giáo chinh phục—cả trước lẫn rất lâu sau Florence? Rõ ràng, tuyênbố này là hoàn toàn sai.
Đúng là trong khoảng thời gian này, có nhiều trận chiến và tranh chấp giữa các phe phái khác nhau ở châu Âu. Lãnh địa Giáo hoàng, Rôma và các đô thị Công giáo khác đôi khi bị tấn công nặng nề. Tổn thất và tang tóc do binh lính của Hoàng đế Charles V gây ra khi công phá Rôma năm 1527 là một ví dụ điển hình. Nhưng đó chỉ là những tổn thất nhất thời. Cuộc công phá ấy còn khiến Giáo hội tập trung nhiều hơn về phía Phong trào Phản Cải Cách.
Những xung đột nội bộ ấy ở châu Âu thường là cách Thiên Chúa sửa phạt chính dân Người vì tội lỗi của họ; điều đó khác hẳn với việc Thiên Chúa giáng sự hủy diệt hoặc đặt ách nô lệ vĩnh viễn trên một tập thể đã bị Người loại bỏ.
Mặc cho các cuộc xung đột ấy ở châu Âu (khác với Constantinopolis và phe ly khai), Rôma vẫn không bị quân Hồi giáo chinh phục. Và các đời Giáo hoàng vẫn tiếp tục sứ vụ của Giáo Hội, nâng đỡ công cuộc truyền giáo và gặt hái nhiều hoa trái dồi dào.
Ví dụ, tại trận hải chiến mang tính quyết định Lepanto, nơi đoàn quân Công giáo, nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ, đã chiến thắng quân Hồi giáo đúng vào ngày Lễ Đức Mẹ Mân Côi năm 1571. Nhiều người coi đây là trận hải chiến quan trọng bậc nhất trong lịch sử. Không ít người tin rằng biến cố này, cùng với các sự kiện khác trong thời kỳ ấy, đã cứu phương Tây Kitô giáo khỏi việc bị Hồi giáo thôn tính.
Ảnh kỷ niệm trận hải chiến Lepanto
Nhưng dân Constantinopolis ngoan cố thuộc phe Chính thống ly khai đã không nhận được ơn chiến thắng ấy. Sự thật là họ có cả một lịch sử chống đối chân lý Filioque. Và sau cùng, họ đã bị chinh phục vì sự phản loạn của mình.
Giọt nước tràn ly là việc họ khước từ Công đồng Florence — một Công đồng hiển nhiên là đại kết, đã được chính các đại biểu của họ xác nhận!
Như Cha Adrian Fortescue nhận xét trong tác phẩm The Orthodox Eastern Church:
Sự hủy diệt sau cùng của vương quốc phản loạn — vốn có một lịch sự chống đối chân lý Filioque — đã xảy ra đúng vào ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, như một dấu chỉ cho thấy họ đã kháng cự tín lý chân thật về Chúa Thánh Thần.
Hơn nữa, khi ta xem xét những gì đã xảy ra với giáo hội phương tây và giáo hội ly khai phương đông, sau khi Constantinopolis sụp đổ, nhận định trên càng được củng cố.
Sau biến cố Constantinopolis sụp đổ vào thế kỷ XV, các quốc vương Hồi giáo đã áp đặt những hạn chế khắt khe trên những người Hy Lạp ly khai. Họ bị cấm tuyệt mọi công cuộc truyền giáo. Họ bị giam hãm, không được rao giảng Tin Mừng.
Nhưng còn tại các quốc gia Công giáo thì sao, về công trình của Chúa Thánh Thần, trong việc đem Tin Mừng đến với muôn dân?
Sau khi Constantinopolis thất thủ, người Công giáo đã khám phá Tân Thế Giới và đạt được những thành quả phi thường: dẫn dắt hàng triệu linh hồn đến với đức tin tại châu Mỹ, Mêhicô, Châu Á và Nam Mỹ. Nhiều điềm lạ và phép lạ cũng được Thiên Chúa thực hiện trong thời kỳ đó.
Ảnh Côlômbô tìm ra Châu Mỹ
Đúng là đã có nhiều kẻ vô luân xuất hiện trong cuộc phản loạn Tin Lành; thế nhưng, bất chấp tất cả, Hội Thánh Công giáo vẫn tiếp tục thực thi công trình của Chúa Thánh Thần và đưa vô số người đến với đức tin nhờ công cuộc truyền giáo rộng rãi.
Cha Marquette (1637 - 1675) truyền giáo ở Canada
Chúa Thánh Thần đã hoạt động một cách uy quyền nơi Hội Thánh chân thật — Hội Thánh Công giáo — còn các phần tử của vương quốc tội lỗi (phe ly giáo Giáo) thì bị giam cầm. Phán quyết của Thiên Chúa nghiêng về phía người Công giáo. Chính Hội Thánh Công giáo đã loan báo Tin Mừng cho muôn dân.
Trong khi đó, tại Constantinopolis:
Trước khi tiếp tục, ta cần thảo luận thêm một luận điểm: một số người Chính thống giáo lập luận rằng Thượng phụ Giuse II thành Constantinopolis, qua đời trong thời gian Công đồng Florence, thực ra không tán đồng giáo huấn của Công đồng, và bức thư gán cho ông là ngụy tạo.
Thứ nhất, không có chứng cứ nào cho thấy bức thư gán cho ông là ngụy tạo. Thứ hai, cho dù đúng là vậy, điều này vẫn không thành vấn đề, vì như Joseph Gill (học giả hàng đầu về Công đồng Florence) chỉ ra, Giuse II đã ủy quyền cho các đại diện của mình tham dự Công đồng và hành động nhân danh ông. Và tất cả các vị ấy đã chấp nhận Sắc chỉ Hiệp Nhất.
Hơn nữa, hai vị kế nhiệm liên tiếp của Giám mục Giuse trên Tòa Thượng phụ Constantinopolis cũng đã chấp nhận Sắc chỉ Hiệp Nhất.
Bởi thế, Tòa Constantinopolis đã ưng thuận Hiệp Nhất.
Một số kẻ khác nói rằng vào năm 1442 hoặc 1443, các Thượng phụ Alexandria, Antiôkia và Giêrusalem đã nhóm một công đồng để lên án việc hiệp nhất. Nhưng các văn kiện được cho là xuất phát từ cuộc nhóm ấy không hề xác thực, như sách của Gill cũng ghi rõ.
Dẫu các văn kiện ấy không xác thực, giả như chúng có là xác thực đi nữa thì điều đó vẫn không thay đổi gì, vì các Tòa Thượng phụ này đã chấp thuận việc Hiệp Nhất rồi. Giáo Hội của Thiên Chúa không thể đảo ngược giáo huấn về Tín lý và Luân lý.
Sự thật là các Giáo hội Giáo đã chấp nhận Sắc chỉ Hiệp Nhất, như chính Giám mục Chính thống Timothy Ware thừa nhận khi bàn về Florence:
Nhưng vì sự chống đối lan rộng nơi quần chúng đối với điều Giáo Hội đã dạy, Đế quốc Giáo đã sụp đổ đúng ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.
Khi Constantinopolis bị Hồi giáo khống chế, trọng tâm quyền lực dời lên phía bắc và đông, về Mátxcơva; nói cách khác, họ bị tản mác lên phương Bắc và phương Đông.
Tòa Mátxcơva bắt đầu giữ địa vị danh dự và thẩm quyền lớn lao trong Chính thống giáo. Nhưng vì sao lại vậy? Điều đó bắt đầu như thế nào? Ta có thể tóm gọn như sau:
Khi Constantinopolis nằm dưới ách Hồi giáo, phe Chính thống giáo đi tìm một “tổng hành dinh” mới cho hàng giáo phẩm ly khai của họ. Người Nga thúc ép Thượng Phụ Constantinopolis lập tòa Thượng Phụ Mátxcơva. Năm 1589, ông ta đã làm như thế. Nhưng hãy nghĩ về sự phi lý của điều này, từ góc nhìn “giáo hội học” Chính thống giáo.
Nếu Thượng Phụ Constantinopolis có thể đơn giản “tạo” một tòa Thượng Phụ mới, một tòa nắm giữ thẩm quyền tôn giáo đáng kể trên người dân Nga — thậm chí trên các linh hồn xa tít tận châu Mỹ và những nơi khác — thì trên thực tế, Thượng Phụ Constantinopolis đang mặc nhiên nắm thẩm quyền phổ quát!
Một người chỉ có thể trao ban điều gì mình sở hữu. Nếu thẩm quyền trên các linh hồn tại Nga (và nhiều nơi ngoài Nga) sau cùng phát xuất từ Thượng Phụ Constantinopolis, thì Tòa ấy — theo một nghĩa nào đó — phải sở hữu thẩm quyền trên mọi lãnh thổ ấy: Nga, châu Mỹ, v.v. Đó thực sự là thẩm quyền phổ quát.
Một mặt, phe Chính thống giáo quả quyết bác bỏ ý nghĩ rằng có bất cứ Giám mục nào có quyền tài phán phổ quát; họ gọi đó là một lạc giáo.
Các “Giáo hội tự trị” (autocephalous) của họ cũng phản ánh cùng một quan điểm.
Nhưng mặt khác, việc họ lập ra các Thượng Phụ mới khắp nơi lại chứng tỏ rằng, trên thực tế, họ chấp nhận ý niệm về một quyền tài phán phổ quát vốn đến từ một Tòa — vì “quyền tài phán” của chính các Thượng Phụ ở ngoài Constantinopolis rốt cuộc đều xuất phát từ Constantinopolis! Hành động của họ như thế cho thấy trong Hội Thánh có một Giám mục có khả năng — và thực sự được dự định — có thẩm quyền phổ quát.
Họ chỉ không nhận ra rằng người ấy không phải là vị thượng phụ ly khai ở Constantinopolis hay ở Mátxcơva; nhưng là một Đức Giáo hoàng hợp lệ, Đấng Kế vị Thánh Phêrô. Và cho dù người Chính thống giáo tưởng rằng họ có quyền tài phán thật sự từ Thiên Chúa trên các linh hồn, thì họ vẫn không có — vì họ đã tách lìa khỏi Quyền Giáo hoàng và khỏi Hội Thánh chân thật.
Tình trạng ly giáo hiện nay giữa Tòa Thượng phụ Constantinopolis và Thượng phụ Mátxcơva càng cho thấy lập trường của phe Chính thống giáo là vô lý và tự mâu thuẫn. Họ rạn nứt vì không thể đồng thuận “ranh giới quyền tài phán của bên này chấm dứt tại nơi nào và của bên kia bắt đầu từ đâu”.
Ảnh triết gia Nga Vladimir Soloviev
Quả thế, vào thế kỷ XIX, triết gia Nga lừng danh Vladimir Soloviev (người đã chuyển sang Công giáo) đã đưa ra một lời tiên báo đầy ấn tượng về một sự đoạn tuyệt tương lai giữa các hệ phái Chính thống Nga và Hy Lạp. Hơn một trăm năm trước, ông viết:
Điều ấy đã ứng nghiệm. Phe Chính thống giáo không phải là Giáo Hội hoàn vũ của Chúa Kitô, nhưng chỉ là một tập hợp rời rạc các giáo phái, chủ yếu được định dạng theo sắc tộc. Bởi thế mới có “Chính thống Nga”, “Chính thống Hy Lạp”, rồi Romania, Serbia, v.v. Đó là những giáo phái dân tộc chủ nghĩa, “tự trị” và “tự quản”. Thật dễ hiểu khi họ tan thành những giáo phái quốc gia hóa sau khi khước từ cơ chế mà Đức Kitô đã thiết lập để cai quản Hội Thánh hoàn vũ.
Về phần lớn thực trạng của họ, Soloviev nhận xét:
Năm 1872, phái Chính thống giáo Hy Lạp đã tuyên án tuyệt thông giáo phái Chính thống Bulgaria, và chuyển quyết định ấy cho giới lãnh đạo Chính thống Nga. Phái Chính thống Nga đã phớt lờ, vẫn giữ “hiệp thông” với người Bulgaria, trong khi phía Hy Lạp cắt đứt hiệp thông với họ.
Một tình cảnh tương tự xảy ra với Serbia. Chính quyền thế tục đã truất phế hàng giáo phẩm của giáo phái Chính thống Serbia và lập một hàng giáo phẩm mới. Chính thống Nga không nhìn nhận hàng giáo phẩm mới này, còn phía Hy Lạp thì lại chấp nhận.
Soloviev cũng ghi nhận tình trạng thiêng liêng của các tín đồ thuộc những “giáo hội” ấy rất sa sút. Ông dẫn lời một vị Giám mục của “Giáo hội” Chính thống Bulgaria:
Soloviev bình luận thêm:
Không bao lâu sau khi Tòa Thượng phụ ly khai ở Moskva được thiết lập, nó đã bị bãi bỏ vào năm 1721 bởi Sa hoàng Peter I.
Người đứng đầu Công Nghị này lại là một quan chức giáo dân. Vậy là, tân tòa thượng phụ ly khai — vốn được người Chính thống giáo kỳ vọng làm trụ sở giáo quyền thay cho Constantinopolis đang ở dưới ách Hồi giáo — đã bị bãi bỏ năm 1721 và cơ cấu thay thế lại do một người thường đứng đầu.
Điều đáng lưu ý và cũng rất quan phòng là vị Sa hoàng đã xóa bỏ chức vụ thượng phụ lại mang tên Peter (Phêrô). Dù có thích hay không, rốt cuộc họ vẫn phải chịu dưới “quyền của Phêrô”.
Về tình trạng bắt đầu dưới thời Nga hoàng Phêrô, linh mục Adrian Fortescue viết:
Soloviev ghi nhận rằng:
Vậy là, người Chính thống giáo đã lập nên tòa thượng phụ ly khai mới ở Moskva, nhưng rồi nó bị bãi bỏ, và giáo phái Chính thống Nga bị đặt hoàn toàn dưới quyền thống trị của Sa hoàng. Đó là một ví dụ nữa về cảnh nô dịch của họ.
Tình trạng ấy kéo dài từ khoảng năm 1721 cho đến năm 1917, với Cách mạng Bôn-sê-vích. Khi chính quyền Sa hoàng sụp đổ trong cuộc cách mạng, phe ly khai liền vội vàng tái lập chức vụ Thượng phụ. Nhưng chẳng bao lâu, người cộng sản nắm quyền kiểm soát và thao túng cơ cấu ấy — lại thêm một vòng xiềng xích.
Đến năm 1927, người đứng đầu Chính thống Nga đã công khai đứng hẳn về phía chế độ cộng sản. Ngày 29 tháng 7 năm 1927, Tổng Giám mục Sergius — về sau trở thành “Thượng phụ” — công bố một tuyên ngôn nổi tiếng, trong đó ông tuyên xưng lòng trung thành tuyệt đối của “Giáo hội” Chính thống Nga đối với Liên bang Xô viết và quyền lợi của chính quyền.
Khi người cộng sản nhận ra rằng họ có thể lợi dụng cơ cấu Chính thống Nga, thể chế này được cho phép khôi phục một vài hoạt động trong phạm vi rất hẹp — miễn là họ không làm phật ý giới cầm quyền.
Giáo hội Chính thống Nga trở thành một giáo phái giả-Kitô bị nô dịch. Họ là thành viên của “Hội đồng các Giáo hội Thế giới” lạc giáo và thường làm nhẹ đi, thậm chí che đậy, các cuộc bách hại của chế độ Xô viết. Họ không hề có tự do.
Nói về giai đoạn muộn hơn dưới thời cộng sản, Philip Walters nhận xét:
Đó lại là một ví dụ nữa cho thấy: rất nhiều trường hợp, vẻ bề ngoài của những kẻ lạc giáo che khuất, hoặc đánh lạc hướng khỏi, một thực trạng rỗng tuếch bên trong.
Trong giai đoạn này, giáo phái Chính thống Nga cho phép ly dị và tái hôn vì đủ mọi lý do — điều hoàn toàn trái ngược trực tiếp với giáo huấn của Chúa Giêsu về tính bất khả phân ly của hôn nhân bí tích.
Đây là lập trường hiện nay của phía Chính thống Nga — một sự phạm thánh ghê tởm và là sự tiếp tay cho tội ngoại tình.
Rõ ràng điều đó hoàn toàn mâu thuẫn với giáo huấn của Chúa Giêsu và của Tân Ước về hôn nhân.
Trong bài viết này, chúng tôi đã cho thấy: lịch sử của “Chính thống giáo” Giáo sau Công đồng Florence mang đặc trưng là cảnh nô lệ. Họ bị giam hãm và đứng ngoài lề trong suốt một phần rất lớn của lịch sử Giáo hội ở những thời khắc then chốt — trong khi Chúa Thánh Thần hành động mạnh mẽ trong Giáo hội Công giáo để hoán cải muôn người.
Đó là phán quyết và án xử của Thiên Chúa trên vương quốc tội lỗi và phản loạn — có thể ví với Vương quốc Samaria.
Nhưng có người sẽ nói: “Hình như ngày nay có một số người tỏ ra háo hức với ‘Chính thống giáo’ Giáo.”
Đừng để bị đánh lừa. Chúng ta đang ở trong thời Đại Bội giáo — thời mà muôn dân đã chối bỏ Đức Kitô.
Bản đồ thế giới về tình trạng pháp lý của những người phạm tội đồng tính
[Tiêu đề các bài báo khác nhau]
Số lượng người thực hành ma thuật tại Hoa Kỳ tăng vọt theo cấp số nhân
Trong thời điểm của cuộc Đại bội giáo và Khải Huyền này, nhiều người đang đánh mất đức tin và dính líu vào vô vàn điều gian ác, các trào lưu xấu xa và những giáo phái lạc giáo — như vô thần, Tin lành, Chính thống Giáo, nhiều hình thức ngoại giáo khác nhau. Điều này tuyệt đối không phải là chỉ dấu cho tính chính đáng của bất cứ trào lưu nào kể trên.
Thánh Basiliô nói:
Hơn nữa, ngoài tất cả các vấn đề khác của họ (theo Pew Research), tại Nga — quốc gia có dân số Chính thống giáo đông nhất thế giới — chỉ 6% người tự xưng là Chính thống giáo nói rằng họ đi nhà thờ mỗi tuần, và chưa tới một phần năm cầu nguyện hằng ngày.
Cũng theo nghiên cứu đó, chưa đến một nửa số người Chính thống giáo ở Hoa Kỳ phản đối “hôn nhân đồng tính”, và khoảng một nửa cho rằng phá thai nên được hợp pháp.
Đó là chưa kể đến những lạc giáo khác của họ! Họ không phải là Kitô hữu đích thực — họ chỉ có vẻ bề ngoài.
Ngoài những lạc giáo hiển nhiên chống lại Quyền Giáo hoàng, tín điều Filioque, giáo lý hôn nhân, v.v., các giáo phái Chính thống giáo hiện đang ôm lấy thứ “đại kết” giả dối giống với giáo phái Vaticanô II. Các giáo phái Chính thống Nga và Hy Lạp đều có đại diện tại buổi cầu nguyện liên tôn ghê tởm ở Assisi năm 1986 — một biến cố mang ý nghĩa cánh chung lớn lao, như tài liệu của chúng tôi đã trình bày — và họ cũng tham dự các lần Assisi sau đó.
Lãnh đạo hiện nay của phái Chính thống Nga (Kirill) tin rằng người Hồi giáo và Kitô hữu thờ cùng một Thiên Chúa — đó là lạc giáo. Ông theo đuổi lối đại kết giả tạo và thậm chí đã ký một tuyên bố chung với Ngụy Giáo hoàng Phanxicô, trong đó họ đồng ý không truyền giáo/cải đạo đối với một số nhóm người.
Vậy tại sao ai lại muốn gia nhập một giáo phái lạc giáo như thế? Hiển nhiên họ không nên.
Còn chuyện đã xảy ra tại Rôma sau Vaticanô II thì sao? Tài liệu của chúng tôi giải thích chi tiết điều này. Đây là cuộc Đại Bội giáo, và để được cứu rỗi, ta cần phải giữ đức tin chân thật duy nhất của Chúa Giêsu Kitô: đức tin Công giáo truyền thống.
Bài Viết Liên Quan