^
^
Lạc giáo của Phanxicô | Lạc giáo trong Vaticanô II | Lạc giáo của Biển Đức XVI | Lạc giáo của Gioan Phaolô II | Từ điển thuật ngữ nguyên tắc | Sự thật về Sơ Lucia giả mạo | Kế hoạch hoá gia đình tự nhiên (NFP) là tội lỗi | Lòng thương xót Chúa của sơ Faustina là giả | Cửa hàng online và thông tin liên lạc |
Các bước trở lại đạo | Nơi lãnh nhận các bí tích | Kinh Mân Côi | Không có Ơn cứu độ bên ngoài Giáo hội | Thuyết Trống toà là gì | Thánh lễ Mới không thành sự | Nghi thức truyền chức linh mục mới | E-Exchanges | ![]() |
Tội tà dâm khiến Vua Solomon trở nên hư hỏng, và con số 666 trong Cựu ước
Vua Solomon thờ tà thần của dân ngoại
Thánh Grêgôriô Cả đã nói:
Theo sau vua Đa-vít, vua Solomon đã trị vì Israel.
Trong Vua 1 chương 3, chúng ta đọc thấy rằng Solomon đã yêu mến Thiên Chúa.
Ý định của Solomon là chân thành và trong sáng. Ông khao khát phụng sự Thiên Chúa và bước đi trong đường lối của Người. Thể hiện sự chân thành của mình, Solomon đã thành tâm xin Thiên Chúa ban cho ông một trái tim khôn ngoan và sáng suốt. Ông xin sự khôn ngoan để xét xử dân chúng cách công bằng, và để phân biệt giữa điều thiện và điều ác. Ý định chân thành của ông làm đẹp lòng Thiên Chúa. Kết quả là, Thiên Chúa đã ban thưởng cho Solomon những ân sủng độc nhất và dồi dào.
Chúng ta đọc thấy rằng Thiên Chúa đã ban cho Solomon sự khôn ngoan vượt xa bất kỳ người nào. Đây là một ví dụ về cách Thiên Chúa ban thưởng dồi dào cho những ý định trong sáng và khát vọng chân thành.
Ngay lập tức, vua Solomon đã thể hiện sự khôn ngoan của mình bằng cách xét xử đúng đắn việc hai người phụ nữ tranh giành một đứa trẻ, khiến mọi người kinh ngạc.
Solomon vượt trội hơn tất cả các vua chúa trần gian về cả đức khôn ngoan lẫn sự giàu có. Ông sở hữu nhiều tàu bè, và đã xây dựng một ngôi đền nguy nga cho Thiên Chúa – Đền Thờ Lớn. Vương quốc của ông rực rỡ đến mức người từ các vùng đất xa xôi đã đến để chiêm ngưỡng sự huy hoàng đó.
Chúng ta đọc thấy về nữ hoàng Saba, người đã đến gặp ông. Đây chính là người mà Chúa Giêsu đã nhắc đến trong Mt 12, 42:
Và nữ hoàng Saba, khi nghe tiếng đồn về sự khôn ngoan của vua Solomon và danh của Đức Chúa, đã đến thử ông bằng những câu hỏi hóc búa.
Nữ hoàng Saba gặp vua Solomon
Bà tiến vào Giêrusalem với một đoàn tùy tùng lớn, mang theo nhiều của cải, lạc đà chở đầy hương liệu. Bà đến gặp vua Solomon, nói với ông tất cả những gì bà có trong lòng. Và vua Solomon đã trả lời bà mọi điều bà đặt ra. Không có gì mà vua không hiểu hay không thể trả lời được.
Khi Nữ hoàng Saba nhìn thấy sự khôn ngoan của vua Solomon, ngôi đền mà ông đã dựng, thức ăn trên bàn, phòng ốc của tôi tớ, trật tự của các quan, y phục của họ, những người dâng rượu, và các lễ toàn thiêu mà vua đã dâng trong nhà của Đức Chúa, bà ngỡ ngàng đến mức không còn lời nào để nói. Bà nói với ông:
Thế nhưng, sau đó Solomon bắt đầu phạm tội với nhiều phụ nữ. Thiên Chúa đã truyền lệnh cho dân Người không được cưới phụ nữ thuộc các dân ngoại, vì họ thờ lạy tà thần.
Solomon không chỉ phạm tội kết hôn trái phép với phụ nữ thuộc các dân khác, mà ông còn sa vào các tội tà dâm. Kết quả là, trái tim ông trở nên vô cùng băng hoại, đức tin và tình yêu của ông đối với Thiên Chúa bị phá hủy. Solomon trở nên mù quáng và bị nô dịch bởi các tội tà dâm của mình. Ông tôn thờ những dục vọng đến nỗi đã lấy 700 người vợ và có thêm 300 cung phi.
Tà thần Mô-léc
Các tội tà dâm của Solomon đã đưa ông xuống đáy vực thẳm trong đời sống thiêng liêng và thờ ngẫu tượng. Solomon, người từng yêu mến và phụng sự Đức Chúa, người đã được ban thưởng sự khôn ngoan và giàu sang không ai sánh bằng, giờ đây lại xây dựng bàn thờ cho tà thần của các dân tộc ngoại bang.
Thiên Chúa không chỉ trừng phạt Solomon bằng sự mù quáng còn khủng khiếp hơn, mà Người còn dựng lên những kẻ thù chống lại ông và cảnh báo về sự sụp đổ của ông.
Sau đó, vua Solomon qua đời. Không giống như vua Đa-vít, Kinh Thánh không hề đề cập đến sự ăn năn của ông. Đáng lưu ý là tại thời điểm vương quốc của Solomon đạt đến tột đỉnh huy hoàng, chúng ta đọc rằng ông nhận được sáu trăm sáu mươi sáu ta-lâng vàng mỗi năm [một ta-lâng vàng nặng chừng 34 kg].
Con số này được đề cập hai lần trong Cựu Ước, khi đề cập đến Solomon và số lượng vàng mà ông nhận được. Có vẻ như chính vào thời điểm đó — hoặc ngay sau đó — Solomon đã sa ngã vào tội lỗi, trở thành một con thú nhơ nhớp và thờ ngẫu tượng.
Con số 666, tất nhiên, được nhắc đến trong Khải Huyền, liên quan đến số của con thú.
Liệu việc 666 sáu ta-lâng vàng được đưa đến cho vua Solomon, khi ông ta đang ở đỉnh vinh quang, có mang một ý nghĩa đặc thù nào không? Chúng tôi tin rằng câu trả lời là có. Chúng tôi tin rằng số 666, số lượng ta-lâng vàng mà ông nhận được, cũng tượng trưng cho việc con người đặt mình vào vị trí của Thiên Chúa.
Vì chúng ta đọc trong 1 Sa-mu-en 8 rằng khi dân Do thái yêu cầu một vị vua đến để cai trị họ, Thiên Chúa đã rất bất bình.
Người dân Israel muốn có một vị vua lãnh đạo và cai trị họ, giống như các quốc gia khác. Nhưng Thiên Chúa đã không hài lòng với yêu cầu này, vì điều này thực sự có nghĩa là họ đã từ chối Người làm Vua của họ. Họ muốn có một con người để đi theo, một con người để cai trị họ. Mặc dù không hài lòng, Thiên Chúa vẫn đáp ứng yêu cầu của họ.
Vì vậy, khi Solomon nhận được 666 ta-lâng vàng mỗi năm, ông thực chất đang được đối đãi như Thiên Chúa trên trần gian. Ông và vương quốc của mình đã thay đổi. Từ việc phục sự Thiên Chúa và được Người ban thưởng bằng sự giàu có, ông đã trở thành một kẻ thờ ngẫu tượng, đắm chìm trong sự xa hoa tột độ, và được đối đãi như một vị thần.
Do đó, chúng tôi tin rằng con số 666 ta-lâng vàng mà Solomon nhận được là một dấu hiệu cho thấy ý nghĩa thực sự của con số này, đó chính là việc con người đặt mình vào vị trí của Thiên Chúa. Con số 666 biểu thị việc con người thay thế cho Thiên Chúa, và việc con người thay thế Đức Kitô.
Cũng thú vị là Giáo hoàng Piô X đã nói rằng dấu hiệu đặc trưng của tên Phản Kitô chính là việc con người thay thế Thiên Chúa.